Trang chủ » Cảm nhận về tâm hồn của Bác qua bài thơ Chiều tối

Cảm nhận về tâm hồn của Bác qua bài thơ Chiều tối

Bài làm 1

Nhắc đến thơ Hồ Chí Minh có lẽ ta sẽ nghĩ ngay đến những vần thơ đầy trăng của Bác nhưng đọc “Chiều tối” mới thấy, Bác không chỉ viết hay về những buổi đêm ngập tràn ánh trăng mà, dưới tư cách là một nhà thơ, Bác còn mang một phong cách “thơ chiều” vô cùng riêng biệt. “Chiều tối” là bài thơ thứ 31 trong tập “Nhật kí trong tù”, bài thơ ghi lại cảm xúc thiên nhiên và cuộc sống lúc ngày tàn của Hồ Chí Minh trên đường chuyển lao vào khoảng cuối thu năm 1942, hình ảnh người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác vừa cổ kính, vừa trữ tình. Qua bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp của Hồ Chí Minh với một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, con người cùng với ý chí kiên cường và tinh thần thép của người Cộng sản.

Mỗi bài thơ trong “Nhật kí trong tù” lại là một nét phác họa vẻ đẹp con người và tinh thần của Hồ Chí Minh: vẻ đẹp của trái tim, khối óc, vẻ đẹp của tinh thần, ý chí, nghị lực, của lòng khiêm tốn, đức hi sinh cao cả…. Được viết vào một hoàn cảnh đặc biệt: Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, bài thơ là sự tỏa sáng của tâm hồn, nghị lực và trí tuệ của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh ngục tù.

“Chiều tối”, đúng như tiêu đề của nó, là một bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều muộn ở nơi rừng núi được người tù Hồ Chí Minh ghi lại trên hành trình chuyển lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ 

rước hết là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống của con người:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;”

Bác nâng niu, trân trọng biểu hiện của sự sống, tinh hoa của thiên nhiên, bởi vậy, ta luôn cảm nhận được những hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng chiếm vị trí nổi bật trong thơ Bác. Thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc với những hình ảnh quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời  cùng với chút ánh sáng cuối cùng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy nơi đỉnh trời đem lại cảm nhân về một không gian giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn. Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một mỗi buồn trong cảnh, và ngay trong cách nhìn cảnh ta cảm thấy tâm hồn Hồ Chí Minh đã thực sự hài hòa với thiên nhiên. Một cách rất tự nhiên, con mắt nhà thơ phải ngước lên cao để nhận ra một cánh chim mỏi mệt đi tìm chốn ngủ và một chòm mây cô đơn lặng lẽ trôi, nhìn cảnh như thế, dường như Bác đã xóa nhòa đi cái ranh giới giữa người tù và du khách tự do, để tâm hồn mình gắn liền với thiên nhiên, dễ dàng hòa nhập, quyến luyến. Có ai ngờ, ngay cả trong hoàn cảnh bị áp giải mà thiên nhiên lại vẫn hiện lên trong thơ Bác một cách tuyệt đẹp như thế.

Không chỉ thiên nhiên mà cho dù là hoàn cảnh nào Bác cũng không quên nghĩ đến con người:

“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Cô thiếu nữ mải miết xay ngô, ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng hòa với khung cảnh lao động bình dị ấy, như đang reo vui cùng với âm thanh than hồng cháy tí tách. Hai câu thơ sau còn thể hiện được cảm nhận tinh tế của Bác trước hành động của con người trong không gian chiều tối. Không giống như trong thơ cổ, con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật mà lại đem sức sống truyền vào thiên nhiên, khiến khung cảnh chiều tối vốn man mác buồn lại bỗng tràn ngập sinh khí, sự ấm cúng cùng với nhịp sống, lao động của con người. Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người là Người lại tìm thấy được niềm vui. Bài thơ không khép lại cảm giác về bóng đêm đang dần xuống mà lại chan hòa ánh sáng, ánh sáng tạo nên cuộc sống đời thường giản dị, thân thuộc. Ánh sáng và niềm vui của sự sống con người hiện lên ở trung tâm của bức tranh đã tỏa hơi ấm ra xung quanh, xua tan đi cái cô quạnh, cái mệt mỏi, cái lụn tắt của cảnh chiều tối nơi núi rừng, khiến người tù cũng thoát khỏi xiềng xích mà quyện mình với cuộc sống hạnh phúc của con người nơi xóm núi nhỏ.

Bên cạnh tình yêu, niềm say mê đối với thiên nhiên, con người, ở bài thơ, ta còn thấy nổi bật lên ý chí kiên cường, tinh thần sắt đá của Hồ Chí Minh.Ta bắt gặp một thoáng buồn bã, cô đơn, ảm đạm “rất người” của Bác khi nhìn vào hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân” , thế nhưng, trước ngọn lửa hồng, Bác quên đi việc mình vẫn đang phải bước đi trên con đường đầy ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trang thơ xua tan cái lạnh lẽo của lòng người và cảnh vật. Với lộ trình “năm mươi ba cây số một ngày”, nơi dừng chân có thể là một nhà lao mới hay một nhà kho ẩm ướt, nhưng thật kì diệu là trong hoàn cảnh như vậy, Người vẫn làm thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một chòm mây, một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sông đông đúc thế”…Thử hỏi, nếu không có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm sao có thể “bay cánh hạc ung dung” như vậy. Đó thực sự là một cuộc vượt ngục tinh thần của Bác, Người đã hoàn toàn chủ động trước mọi hoàn cảnh, đó chính là vẻ đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của người Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đan xen giữa những câu thơ như một mạch cảm xúc ngầm chính là khát vọng thầm kín và đầy tính nhân văn của Bác. Người tù Cách mạng dù kiên cường, dũng cảm đến đâu cũng luôn mơ ước, khát khao về một tổ ấm, quanh quần bên bếp lửa gia đìn. Hình ảnh cánh chim về rừng như đang tìm về tổ ấm của mình, cô thôn nữ xay ngô bên lò than rực hồng, tất cả làm hiện lên khung cảnh bình dị mà ấm cúng nơi quê hường, nơi mái nhà sum vầy, đoàn tụ. Nghĩ về những hình ảnh đời thường, yên bình ấy, ta có thể thấy được chất “người” vô cùng nhân bản trong Bác.

Trong thơ của Hồ Chí Minh, từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật đều vận động một cách rất tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai. Ta thấy được một tâm hồn lạc quan, niềm tin mạnh mẽ vào Cách mạng, vào một tương lai tươi sáng, “Chiều tối” cũng không nằm ngoài quy luật đó:

“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.”

Câu thơ kết thức bằng ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Có thể nói , chữ “hồng” ở cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng chói rọi ngược trở lại làm sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã, nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời. Những hình ảnh đối lập giữa niềm vui và nỗi cô đơn, buồn bã, giữa chiều tối và bình minh, mặt trời hồng đã thể hiện một phong cách thơ Hồ Chí Minh dầy tinh tế và nhạy cảm, một sứ kết hợp rất tự nhiên giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại.

Chiều tối giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng từng câu từng chữ đều như một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần Hồ Chí Minh: một tâm hồn nghệ sĩ dạt dào tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí sắt đá vượt lên mọi hoàn cảnh, một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Bức chân dung ấy là sự hòa hợp giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến sĩ, như trong bài “Đọc thơ Bác”, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã viết: “Vần thơ của Bác, vần thơ thép/ Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.

Bài làm 2

Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của tác giả Hồ Chí Minh, bài thơ “Chiều tối” đã thể hiện được nổi bật và sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Đây là bài thơ số 31 trên tổng số 134 bài của “Nhật kí trong tù”, là một trong năm bài thơ được Người sáng tác trên đường chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Qua bài thơ, vể đẹp tâm hồn của nhà thơ đã được khắc họa rõ nét qua cách cảm nhận về thiên nhiên, cũng như ý nghĩa của toàn bộ bài thơ.

Hồ Chí Minh là một con người yêu đời, yêu thiên nhiên, nhạy cảm trước những biến thái tinh vi của tạo vật:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Tác giả đã gợi ra thời gian vào buồi chiều tà. Thời điểm buổi chiều tối thường gợi buồn, nhất là trong hoàn cảnh Bác đang ở trên đất khách quê người trong cảnh mệt mỏi, lê bước trong chặng đường chuyển lao. Buổi chiều là quãng thời gian gợi cảm xúc của con người nhất trong một ngày, nó gợi sâu sắc nỗi nhớ về sự đoàn tụ. Bác cảm nhận về cánh chim và chòm mây. Độc giả đã bắt gặp rất nhiều những bài thơ viết về cánh chim, nhưng hình ảnh cánh chim trong bài thơ này lại là cánh chim mệt mỏi. Bên cạnh đó, hình ảnh chòm mây như chính là hình ảnh của tác giả và niềm khao khát tự do của người chiến sĩ cộng sản. Hai câu thơ trên gợi ra cho người đọc hình ảnh một người chiến sĩ, với tư thế ung dung, hòa hợp với thiên nhiên, thể hiện niềm khao khát tự do của con người. Trong hoàn cảnh bị trói buộc về mặt thể chất, nhưng tác giả vẫn có sự giải thoát về mặt tinh thần. Bác vẫn có một tinh thần lạc quan, vẫn có những quan sát, cảm nhận tinh tế đối với sự chuyển động của cảnh vật thiên nhiên.

Hồ Chí Minh là một người mang trong mình tính yêu thương sâu sắc, dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng luôn có sự đồng cảm:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bác Hồ thể hiện sự chia sẻ nỗi vất vả của cô gái xay ngô nơi xóm núi, vui với niềm vui lao động của cô. Nếu như trong các bài thơ thất ngôn tứ tuyết của Thơ Đường, có xuất hiện hình ảnh những người phụ nữ, nhưng họ thường xuất hiện ở trong sự khuê các. Còn Hồ Chí Minh, Người lại nêu ra hình ảnh người phụ nữ trong lao động một cách thật tự nhiên.

ên cạnh đó, độc giả còn thấy được vẻ đẹp của niềm lạc quan bất diệt xuyên suốt cả bài thơ. Trong một bài thơ, từ hình tượng thơ ta có thể nhận ra tư tưởng của tác giả đều có sự vận động nhất quán, hướng tới sự sống tương lai. Tâm trạng có sự vận động từ buồn đến vui, từ cô đơn, lẻ loi đến ấm áp. Hình ảnh cánh chim đượm buồn nhưng là cánh chim bay về tổ, gợi một chút gì đó ấm áp của sự đoàn tụ. Chòm mây cô đơn gợi nỗi buồn lẻ loi, nhưng chòm mây ấy lại “mạn mạn độ thiên không” gợi một tâm hồn khoáng đạt, một phong thái ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh. Từ hình ảnh cánh chim và chòm mây vận động, chiếc cối xay ngô của cô gái vùng sơn cước cũng vận động. Thời gian trôi dần theo cánh chim và chòm mây theo những vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi, và đến khi “bao túc ma hoàn” thì “lô dĩ hồng”. Bình luận về chữ “hồng”, đây được coi là nhãn tự của bài thơ, nó nằm ở cuối bài nhưng lại gánh được 24 chữ kia, và mang lại thần sắc cho bài thơ.

Qua bài thơ “Chiều tối”, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản, giàu tình yêu thương, luôn nâng niu mọi sự sống trên đời, lạc quan hướng về ánh sáng.

Bài làm 3

Có thể thấy ngay từ tập thơ Nhật Kí Trong Tù, trái tim của thi nhân ấy đã không chỉ một lần rung động trước vẻ gợi cảm của buổi chiều hôm để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều người nhớ mãi như “ Vãn chiều hôm”, “ Hoàng hôn” ,.. Song trước tất cả và quen thuộc hơn tất cả những bài thơ chúng ta vừa kể đến vẫn phải là bài thơ mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây : “Mộ” ( chiều tối). 
 
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ 
Cô vân mạn mạn độ thiên không 
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc 
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng 
 
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ 
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không 
Cô em xóm núi xay ngô tối 
Xay hết lò than đã rực hồng. ) 
 
“ Chiều tối “ là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm, nhưng điều lý thú là trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không dùng đến một chữ “ chiều “ nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà thơ chỉ vờn vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một chòm mây, áng mây chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thôi song lại là những nét rất tiêu biểu cho những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối buông màn xuống vạn vật. Từ những câu thơ cuối cùng lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng , man mác bâng khuâng của buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó có thể là một buổi chiều thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển giao từ nhà lao này sang nhà lao khác. Nhưng cũng không thể không thấy rằng buổi chiều ấy còn mang một vẻ đẹp đã trở nên vĩnh hằng của những buổi chiều mà hình sắc còn đọng lại trong những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi về không ít những “ quyện điểu “ với “ cô vân”. "Chim hôm thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành" ( Nguyễn Du), "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi" ( Bà Huyện Thanh Quan) hay như : "Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn" (Lý Bạch ) Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã làm cho bài thơ “ Chiều tối “ của Bác đã nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ vì thế mà càng trở nên mênh mang hơn, không chỉ trong không gian mà còn cả ở thời gian.Những xúc cảm như thế đã được nhà thơ gửi gắm vào hai câu thơ về chiều hôm đó. Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Có nhiều người cho rằng những dòng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một người tù trên con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh chim chiều cũng tìm ra chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la. Trong khi đó, người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng cánh chim nọ, áng mây kia vì chiều đã sắp hết rồi mà mình vẫn không có nổi một chốn dừng chân. Mặt khác, cũng có một cách hiểu dường như hoàn toàn ngược lại. Theo đó, có thể thấy đây là hai dòng thơ của một tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến, dõi nhìn theo một cánh chim , một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao xuyến một tình cảm rất người, cho dù đang phải sống một cuộc sống “ khác loài”. Nên chăng ta hãy hiểu theo một cách hiểu được nhiều người ủng hộ nhất, cách hiểu thứ hai. Song hiểu theo cách nào trong hai cách trên, chúng ta vẫn tìm thấy ở đó một chân dung tinh thần của một chủ tịch Hồ Chí Minh thi sĩ, một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên , đất trời và cuộc sống. Đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người. Cũng như nhiều bài thơ khác trong “ Nhật kí trong tù “, “ Chiều tối “ biểu hiện một cảm nhận của tác giả về cuộc sống luôn có sự vận động, phát triển, chảy trôi. Chúng ta có thể thấy điều ấy khi đối chiếu hai câu đầu với hai câu cuối của bài thơ. 
 
Nét cổ điển thấy rõ qua việc tác giả vẽ lên không gian buổi chiều với những thi liệu quen thuộc: cánh chim, chòm mây, bầu trời… bên cạnh đó là thể thơ thất ngôn đường luật cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã giúp cho thi nhân phát triển ý đồ nghệ thuật của mình. Nét hiện đại: tất cả được vẽ nên thơ qua tình cảm bao la của Bác. Ví dụ: cánh chim trong thơ cổ thường xuất hiện và bay hút vào vũ trụ, là cánh chim phiêu dạt, vô định trước bầu trời… thì trong thơ Bác cánh chim rất gần gũi với con người. Bác thấy được trong cánh chim chiều muộn bay về tìm chốn dừng chân là cánh chim "mỏi". Phải yêu thiên nhiên, cảnh vật và có mối đồng cảm bao la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim kia… 
 
Rõ ràng hai câu thơ trên đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến hai câu thơ sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù nhà thơ trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “ tối”.( Chữ “ tối “ trong bản dịch là do người dịch tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới thấy được rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “ tối “ mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Và như thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thôi không ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ , giản dị. Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người. Hình ảnh trung tâm của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều về tổ, một áng mây trôi mà là một con người lao động. Và ngôn từ của những dòng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi thay. Hai câu thơ này không thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang nhiều chất “ bạch thoại”, mộc mạc , đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ “ bao túc” xuất hiện đến hai lần. Hai câu thơ này một lần nữa không chỉ là để ghi lại những gì nhà thơ đã thấy trong một buổi chiều. Bởi không nên quên rằng “ Chiều tối” vẫn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của câu thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ đối với con người lao động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn của họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ “ ma bao túc” để bật lên những vòng quay nặng nề, luẩn quẩn và ở âm điệu của những câu thơ mà đọc lên có thể cảm thấy vất vả, khó khăn. Và như thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù đó là những con người không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt. Song cũng nhiều người muốn hiểu hai câu thơ sau này theo nghĩa khác, một hướng tiếp nhận khác. Phải chú ý đến những chữ “ hoàn “ ( hết ) và hình ảnh của chiếc lò than đã rực đỏ lên, để nhận ra rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người . Nhưng hai ý kiến ấy ngẫm ra cũng không hoàn toàn đối lập, bởi vì đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất , nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía trong những câu thơ : "Chỉ biết quên mình cho hết thảy" hay: Nâng niu tất cả chỉ quên mình". Chúng ta nhận ra “ Chiều tối “ là những vần thơ quên mình vĩ đại. Cực độ con người đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của những con người bình thường khác, tình cờ gặp mặt hoặc thấy trên con đường đày ải. Nhưng có lẽ cũng không nên nói rằng Bác Hồ đã quên mình bởi một người như Bác thì bầu trời, xóm núi, cô gái xay ngô và bếp lửa đang rực hồng lên ấy không phải là những cái ở bên ngoài mình. 
 
Bị trói, bị tù đày, bị giải đi " Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày". Nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than van. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh. 
 
Dường như với Bác, đấy là cuộc sống của chính mình. Vậy nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác có thể nâng niu tất cả, vì Bác sống như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ôm trọn mọi non sông, kiếp người: Bác sống như trời đất của ta. 
 
“Chiều tối” là bài thơ hay trong tập NKTT. Một bài thơ kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, vừa hồn nhiên, vừa thâm trầm sâu sắc. Chất trẻ trung hiện đại kết hợp hài hòa với hương vị cổ điển đậm đà. Hồn thơ vượt lên trên sự khổ ải để cảm nhận dạt dào vẻ đẹp của thiên nhiên và sức sống của những mảnh đời thường trong lao động. Qua đó, ta thấy trong thơ của Bác từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật đều luôn luôn ở tư thế vận động và nhất quán hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai… 
 
“Cái kết này tuy không sáng bừng lên màu hồng lạc quan cách mạng như ai đó hiểu, cũng vẫn ấm áp tình người, làm cho nỗi lòng người đi vơi bớt nỗi cô đơn, tịch mịch. Cùng với hình ảnh ấy một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thoáng đâu đó. Nghệ thuật của bài thơ là 1 nghệ thuật gián tiếp cổ điển, nói cảnh để nói tình. Hình ảnh trong thơ cũng là tâm cảnh. Nếu chỉ phân tích nó như 1 bức tranh hiện thực giản đơn, chắc chắn ta sẽ rời xa thế giới nội tâm phong phú của nhà thơ”.

Bài làm 4

Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ tịch:
 
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ 
Cô vân mạn mạn độ thiên không 
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc 
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng. 
 
Dịch nghĩa:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ 
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không 
Cô em xóm núi xay ngô tối 
Xay hết lò than đã rực hồng.
(Nam Trân dịch)
 
Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc.
 
Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thờ

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top