Trang chủ » Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà

Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà

Bài làm 1

Tản Đà là một người của hai thế hệ – thời kì Hán học đã tàn và Tây học mới bắt đầu. Xuất thân trong một gia đình quan hệ phong kiến theo học chữ Hán và chữ quốc ngữ. Tản Đà có lối sống phóng khoáng, không chịu ép mình trong khuôn khổ chơi ngông với cuộc đời. Bài “Hầu Trời” là một trong những tác phẩm đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật phong cách thơ của thi sĩ.

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mộng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy

Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.

Một năm ba trăm sáu mươi đêm.

Sao được đêm đêm lên hầu Trời!”

Câu chuyện “Hầu Trời” được bắt đầu bằng hàng loạt các chi tiết sắp xếp theo một trình tự hợp lí để tạo ra cốt truyện chặt chẽ và tự nhiên. Mở đầu câu chuyện tác giả thật khéo léo và hợp lí với tự nhiên. Tản Đà kể cho người đọc một câu chuyện  về một cảm giác bang khuâng, bang khuâng của người đi trong mộng với câu hỏi nghi vấn. Thi sĩ đã tự hỏi mình “có hay không” “thật hay giả” và tác giả đã nghiêng câu hỏi về  một hướng khẳng ddingj đó là sự thật của cảm xúc vẫn còn rất “thời sự”. Mới chỉ là đêm qua, cái thật của khát vọng được thỏa chỉ cho đôi cánh, tài năng tự do bay bổng. Đó là một điều hấp dẫn đặc biệt đưa người đọc từ thế giới thực bước vào cảm xúc lãng mạn cùng với tác giả và câu chuyện Hầu Trời.

Trời mời tác giả lên hầu Trời, lên đọc thơ, thời gian nhà trời uy nghiêm, rực rỡ, không gian đọc thơ rất sang trọng “Bành như tuyết, vân như mây”  “Các chư tiên ngồi quanh để chờ đợi, trước khi đọc thơ”. Trời sai pha nước để nhấp giọng “cho tiếng thơ thêm sang sảng” Khi nhà thơ cất tiếng lên thì không gian sang trọng ấy đã nhường chỗ cho cảm xúc của trần thế. Trời và các chư tiên không chỉ thích thơ mà còn bộc lộ những cảm xúc rất đỗi con người “Nở dạ” vì sung sướng “lè lưỡi” thán phục tài năng “chau mày” ngẫm nghĩ lắng tai để nghe cho rõ “đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay” Ngồi trên ghế cao trời cũng bật cười trước sự lắm lỗi phá cách và tự quảng cáo của thi sĩ. Các chư tiên say thơ háo hức đón chờ thơ, như đứa trẻ con đón chờ quà.

“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Qua ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ giữa thi sĩ và các nhân vật ;úc đầu còn là yêu cầu truyền lệnh, sai gọi, con xin đọc… những khi tiếng thơ được cất lên một cách hào hứng say xưa thì chỉ còn là mối quan hệ giữa tác giả và độc giả… Nhiệt tình, phấn khích và họ không ngần ngại gọi thi sĩ bằng anh.

Câu chuyện Hầu Trời thấp thoáng nụ cười nhẹ nhàng khôi hài vừa đạo mạo vừa suồng sã. Nó tạo lên một tiếng cười mang tinh thần dân chủ, thể hiện rõ nét con người có tính sáng tác của tác giả, thể hiện cái tôi tài hoa của tác giả. Tản Đà công khai đắc ý nói về mình:

“Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật cười!”

Để chứng minh cho Trời và các chư tiên thi sĩ đã dẫn ra hàng loạt những tác phẩm đã được in và bán dưới hạ giới. Thi sĩ cũng tự tôn tài năng của mình qua thái độ trầm trồ, thán phục, suýt xoa của các vị chư tiên. Trời khen văn tài thi tài cao cường.

“Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít?
Nhời văn truốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây truyển!
Êm như gió thoảng! tinh như sương!
Đầm như mưa sa! lạnh như tuyết!”

Thi sĩ rất đắc ý và sung sướng tán thưởng lời thẩm định của Trời như một thước đo chính xác cho tài năng của mình. Đó là sự giàu có về nội dung đa dạng về hình thức.

Thi sĩ đã tự nhận mình là trích tiên được trời tin tưởng giao phó nhiệm vị thiên lương được lương thịnh dưới hạ giới. Khẳng định cái ngông, cái tài hoa văn học. Cuộc hầu Trời trong tưởng tượng diễn ra khoảng hai canh giờ nhưng đã để lại nỗi niềm bang khuâng và một khát khao chân thành tha thiết của thi sĩ:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”

Hầu Trời quả là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mật thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những nãm hai mươi của thế kỉ XX. Khát vọng sống với văn thơ với những con người yêu và sành thướng văn thơ

Bài làm 2

Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: Nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

   Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

Đêm qua chẳng biết có hay không,
   Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

   Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.

   Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

   Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: Gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :

   Đương cơn đắc ý đọc đã thích
   Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.  
   Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…


   Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

   Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân:

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
   Văn trần được thế chắc có ít!…
   Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

   Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :

   – “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
   Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

   Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại:

   Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
   Trời định sai con một việc này
   Là việc “thiên lương” của nhân loại,
   Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

   Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.

   Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.

Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.

   Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.

Bài làm 3

Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn và Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ”(Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của Tản Đà là bài “Hầu trời. Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất “cái tôi” cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Bài thơ “Hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lung”

Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước
Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.
….
….
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng thú và thăng hoa đến như thế này nên đọc liền một mạch:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”.

Thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

“Cái tôi” được thể hiện ở việc tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Hiện tượng này từ trước đến nay trong lịch sử văn chương chưa từng thấy, nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân so với các nhà văn, nhà thơ cùng thời mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ văn Tản Đà được chính tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…, thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Đây chính là cái “ngông” của thi sĩ, tự khẳng định một cách rất “ngông”, rất Tản Đà.

Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

“ – Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

“ – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

Lúc ấy Trời mới phán rằng đó không phải là Trời đày mà là nhờ làm việc “thiên lương” của nhân loại. Thấy Trời phán vậy, thi sĩ liền trình bày một mạch nỗi khổ của bản thân và những khó khăn của nghề kiếm sống bằng ngòi bút:

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”

Đoạn thơ này là một bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh chính xác đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọ thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và các chư tiên diễn ra trong niềm xúc động:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai”

Thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải thốt ra như sự tiếc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.

Câu chuyện “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi” ngông, phóng túng tác giả ý thức rất rõ về tài năng, dám đàng hoàng công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ “Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà.

Bài làm 4

Khi chốn nước non này còn lặng lẽ vào những năm đầu thế kỉ XX, người ta bỗng thấy một nhà thơ đã làm xao động cả giới văn đàn. Ông được gọi là người “nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, “gạch nối giữa hai thế kỉ”, người đặt nền móng đầu tiên cho thơ mới. Ông chính là Tản Đà. Điều ông mang tới là một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Thi phẩm được in trong tập Còn chơi xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.

   Được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên khá phóng khoáng, tự do, lại thêm cách thể hiện đậm chất tự sự với các yếu tố cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Đó là một câu chuyện “hầu Trời” của nhân vật chính là tác giả – một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và rất bình dị. Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ hào hứng của tác giả và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.

Chắc hẳn nhiều người vẫn còn quá ấn tượng với cách mở đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,

   Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin. Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra.

Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống, vì tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời lên đọc để nghe qua. Đúng là có vẻ khó tin nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên như thế khiến người đọc thấy được sự thú vị, đời thường và cũng đáng tin. Câu chuyện vì thế càng gợi thêm sự tò mò, hấp dẫn. Vậy đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện mình như thế nào?

Điều hướng bài viết

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top