Sau khi ra tù, Chí Phèo bắt đầu đắm chìm trong rượu và tội lỗi, Chí Phèo dần trở thành “Con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Nhưng sau khi gặp gỡ Thị Nở, con người lương thiện của Chí Phèo bỗng bừng tỉnh. Bài phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ của Phèo – Nở do Lambaitap.edu.vn biên tập dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về đề tài này.
Dàn ý quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
1. Mở bài quá trình hồi sinh của chí phèo
– Giới thiệu về tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao và nhân vật Chí Phèo
– Dẫn dắt vào đề bài : phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo sau khi gặp cô nàng Thị Nở.
2. Thân bài quá trình tha hóa và hồi sinh của Chí Phèo
* Sơ lược về cuộc sống Chí Phèo sau khi ra tù:
+ Là tay sai cho điền chủ Bá Kiến
+ Triền miên nghiện ngập trong rượu, rạch mặt ăn vạ như cơm bữa.
=> Dần dần trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.
+ Bất ngờ gặp Thị Nở trong 1 lần say
* Tóm tắt quá trình hồi sinh của Chí Phèo
– Buổi sáng hôm sau:
+ Tỉnh dậy sau cơn say, tỉnh táo lần đầu tiên sau khi ra tù.
+ Anh ấy cảm thấy “mông lung, mơ hồ buồn” + Nghe âm thanh của môi trường xung quanh “iếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về”.
+ Mang trong mình ước mơ thời tuổi trẻ “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
+ Nhận thức về cảnh ngộ hiện tại của mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”.
+ Những nỗi sợ mơ hồ
=> Chí Phèo dần cảm nhận lại các cảm xúc, tri giác và lý trí, đó là dấu hiệu của sự thức tỉnh của chí phèo khi gặp thị nở
– Khi Thị Nở từ ngoài bước vào:
+ Chí thấy xúc động, hắn thấy “mắt hình như ươn ướt” bởi đây là lần đầu có người đối xử tốt với hắn như thế.
+ Chí thấy lòng mình “thành trẻ con, muốn làm nũng với thị như với mẹ”.
+ Lương tâm trỗi dậy sự thèm muốn lương thiện “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người”.
+ Mong muốn xây dựng mái ấm nhỏ với Thị Nở “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.
=> Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, phần người bên trong Chí Phèo đã được hồi sinh.
3. Kết bài quá trình hồi sinh của chí phèo
Đánh giá cảm nhận về quá trình hồi sinh của chí phèo
Bài làm 1 phân tích quá trình hồi sinh của chí phèo
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu truyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đọan thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng vs sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong qúa khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cao vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần găp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.
Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vợ chồng”. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này k như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận đc cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc đc thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.
Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bài làm 2 Phân tích quá trình hồi sinh của chí phèo ngắn gọn
Đọc câu chuyện, người đọc bị ám ảnh mãi về sự thức tỉnh nhân tính của Chí Phèo, về sức mạnh của tình thương yêu con người trong xã hội. Chí Phèo từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Một anh thả ống lươn một ngàv nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không “. Tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân đã biến anh canh điền chất phác đã trở thành một thằng lưu manh.
Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cùng thể, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào?. Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra! Không ai lên tiếng cả. Tức thật!, Ờ! thế này thì tức thật!. Tức chết đi được mất. Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn… ”.
Từ cái dáng hình đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết… Đến cách ăn vạ thật đáng sợ: lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say là những ngày hẳn đã phá đi biết bao ngôi nhà, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn không nhận thức được rằng mình đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó. Cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà điều kì diệu đã xảy ra, dù ngẳn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu có thể thay đổi một con người.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng rười rượi chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Lần đầu tiên, Chí cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “ Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ chim riu rít bên ngoài đủ biết (….).Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ.
Anh thuyền chài gõ mái chèo đuôi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy.,.”. Và cũng lần đầu tiên, sau những ngày say, hắn biết thế nào là buồn, cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về mình. Và Chí Pheo đau đớn khi nhận ra rằng: Hắn là một kẻ trắng tay. Đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. “đói rét, ốm đau và cô độc”. Rò ràng là đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của Chí.
Sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Con đường thực sự mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành. Không biết một người đàn bà dở người lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy làm Chí xúc động sâu sắc. Thị Nở xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Tình người ấy, cùng với hương cháo hành đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt từ lâu.
Và quan trọng nữa, nó đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người, được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, ngay ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo đã thức tỉnh thực sự.
Tuy rằng cuối cùng, cánh cửa được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng lại của một người đàn bà dở người, trong một xã hội tăm tối nên đã vội vàng đóng chặt. Nhân tính trở về, Chí không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người. Bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh.
Tình thương yêu là hạnh phúc của con người. Tâm hồn con người giống như một vườn cây mà tình yêu thương là những trận mưa tưới mát, làm cho vườn cây tươi tốt, vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Đã có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Cô bé nọ đưa cho người hàng xóm bất hạnh của mình, khi mẹ bé nói cô ấy đang đau khổ vì đứa con của cô mới qua đời, một chiếc băng gạc. Ý nghĩ ngây thơ về việc băng bó một vết thương nhưng thực sự lại có thể là chiếc băng gạc băng bó cho vết thương lòng tưởng chừng không bao giờ vơi cạn, tình yêu thương giúp con người ta trở nên mạnh mẽ, vượt lên trên nỗi đau để chiến thắng số phận. Cũng khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo, ta nhớ đến câu chuyện về Gia-ve trong “Những người khốn khổ” của V.Huy- gô.
Một kẻ được miêu tả mang bộ mặt và tâm hồn của chó sói, chỉ biết đến pháp luật đến mức trở thành nô lệ của pháp luật cuối cùng lại phải khuất phục trước con người sống trong triết lí tình thương “người với người sống để yêu nhau” của Giăng-van- giăng. Rượt đuổi con mồi của mình đến cùng để Gia-ve nhận ra rằng, cái thứ pháp luật hà khắc mà hắn tôn thờ, phục dịch trong xã hội đó là một mớ lí thuyết khô cứng, mất hết nhân tính. Chỉ có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.
Tình yêu thương cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy, Con người không thế sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung; bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.
Số phận khổn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị ta hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông luong thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am tường sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.
Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hối sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng chí bâng khuẩng, mơ hồ buồn.
Tỉnh rượi rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng quốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.
Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.
Bài làm 3 phân tích sự hồi sinh của chí phèo
Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng. Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với “cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại”, “cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”. Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.
Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến – nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.
Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.
Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon…nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.
Bài làm 4: phân tích quá trình hồi sinh của chí phèo ngắn gọn
Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về những người nông dân nghèo. Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao không chỉ lên án hiện thực xã hội đen tối đã đẩy con người vào bước đường tha hóa mà còn thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc khi hướng con người. Nhà văn đã dùng tình thương và tấm lòng cảm thông để phát hiện, bênh vực và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp bên trong Chí Phèo- người được coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Ta có thể thấy rất rõ điều này qua những miêu tả của nhà văn Nam Cao về quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.
Từ sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hắn triền miên trong những cơn say, trong những lần rạch mặt ăn vạ. Men rượu và những hành động lưu manh của một tay sai đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ” trong mắt mọi người. Có lẽ cuộc sống của Chí Phèo sẽ mãi mơ hồ, hắn sẽ mãi sống trong hơi rượu và tội ác nếu không có cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng cũng đẹp đẽ, hạnh phúc nhất với Thị Nở.
Thị Nở là người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhà lại có mả hủi, tính tình không được sáng suốt, nhanh nhẹn nên bị cả làng hắt hủi, coi thường. Cuộc gặp gỡ tình cờ không chỉ gắn kết giữa hai con người dưới đáy xã hội mà còn đánh thức phần nhân tính đã “ngủ quên”, giúp Chí Phèo hồi sinh sau một chuỗi ngày trượt dài trong tội ác. Sáng hôm sau, khi Chí Phèo tỉnh dậy từ cơn say thì “trời đã sáng từ lâu”, đây cũng là lần đầu tiên từ khi ra tù mà hắn tỉnh táo. Giây phút tỉnh táo hiếm hoi này khiến Chí nhận thức được thế giới xung quanh, nhận thức được chính mình, gắn thấy “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.
Chí nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về”. Đó là những âm thanh của cuộc sống lao động bình dị, những âm thanh ấy ngày nào cũng có, thế nhưng với Chí nó thật đặc biệt bởi đã lâu lắm rồi hắn không nghe thấy, vì hôm nay hắn đã hết say. Cũng chính âm thanh của cuộc sống đã làm Chí nhớ về những ước mơ giản đơn thời trai trẻ “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Chí từng là một anh canh điền hiền lành, hắn mơ ước có một gia đình nhỏ và sống lương thiện cả đời, thế nhưng chỉ vì sự lăng loàn của bà Ba và sự ghen tuông vô lí của Bá Kiến đã phá vỡ tất cả. Chí phải đi tù, ra tù lại bị Bá Kiến chi phối để rồi trở thành một tên lưu manh bị cả làng khinh ghét. Trở về thực tại, Chí thấy cuộc đời mình thật đáng buồn, hắn không có gì trong tay “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Thế nhưng, với Chí tuổi già, đói rét, ốm đau không đáng sợ, điều đáng sợ nhất là sự cô độc. Sau cơn say dài, sau khi tỉnh rượu Chí đã nhận thức được thế giới xung quanh, hiểu được những khát khao và cả những nỗi sợ hãi mơ hồ sâu kín trong lòng mình. Chí đã dần tìm lại những tình cảm, nhận thức, lí chí của một con người, đây là dấu hiệu của sự hồi sinh.
Khi Chí đang đắm chìm trong những suy nghĩ miên man thì Thị Nở vào mang theo một nồi cháo hành nóng hổi. Sự xuất hiện bất ngờ cùng hành động quan tâm đầy ấm áp của Thị Nở khiến Chí xúc động, hắn thấy “mắt hình như ươn ướt”, bởi trong cuộc đời Chí, chưa có người đàn bà nào đối tốt với hắn như vậy “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Trước hành động chăm sóc ân cần của Thị Nở, Chí thấy “lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…”. Lúc này hắn cũng hiền lành, lương thiện như bất kì một người nông dân lương thiện nào khác, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ, đâm chém người”. Có thể nói phần lương tri của Chí đã thức tỉnh, Chí đã tìm thấy con người thật của mình.
Nhân tính thức tỉnh, Chí nhận thức thấm thía khát khao cháy bỏng trong lòng mình, hắn muốn trở về cuộc sống lương thiện trước kia, muốn được bắt đầu một cuộc sống mới và thèm được làm hòa với mọi người “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao…”. Không chỉ khát khao lương thiện, Chí Phèo còn mong muốn có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Hắn trân trọng và khát khao về một hạnh phúc bình dị, đơn sơ “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Không chỉ ấp ủ trong lòng mà Chí đã bộc lộ trực tiếp với Thị Nở, lời bày tỏ “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” đã thể hiện được mong muốn, sự chân thành của Chí.
Qua việc miêu tả quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã thể hiện sâu sắc tình thương, tấm lòng cảm thông với những con người bất hạnh. Nhà văn không chỉ nhìn nhận họ ở diện mạo, hành động bên ngoài mà hướng ngòi bút khám phá phần người bên trong để thấy được những phẩm chất đáng trân trọng. Qua sự hồi sinh của Chí Phèo, Nam Cao muốn khẳng định vẻ đẹp, sức mạnh của sự lương thiện, đó là phần bản chất tự nhiên, tốt đẹp mà không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt.
Bài làm 5: cảm nhận về quá trình hồi sinh của chí phèo
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh của Chí Phèo – một người đã tưởng đã là quỷ dữ của làng Vũ Đại ..
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Sau một thời gian dài hoàn toàn bị tha hóa, Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.Cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở, Chí đã thật sự được hồi sinh.Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời của Chí với những thời khắc bừng sáng ngắn ngủi và hạnh phúc, để rồi sau đó tắt ngấm ngay.Chí lại rơi vào bế tắc và thảm kịch đã xảy ra: đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.
Sau một tối say rượu, Chí đã tình cờ gặp Thị Nở.Họ ăn nằm với nhau.Thế rồi nửa đêm, Chí đau bụng, nôn mửa. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Bắt đầu là tỉnh rượu : Sáng hôm sau, Chí tỉnh dậy khi “trời đã sáng lâu”.Kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” đã hết say, hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy lòng “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.Lần đầu tiên, Chí nghe thấy bản nhạc rộn ràng của cuộc sống lao động : đó là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá; tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải về…Những âm thanh ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm và nghe được, vì hôm nay Chí đã hết say.Phải chăng, những âm thanh ấy là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức.
Sau đó là tỉnh ngộ : Khi tỉnh táo, Chí đã “ngộ” – nhận thức , nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai :
Đầu tiên là hắn “nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng mơ ước “có một gia đình nho nhỏ…”.Đấy là quá khứ, còn hiện tại? Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “ hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”,và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”. Tương lai đối với hăn, còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ , bởi hắn đã “trông thấy trước “ quá nhiều điều bất hạnh : “tuổi già, đói rét và ốm đau”, nhất là “cô độc”.Sau những tháng ngày sống gần như vô thức,Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình.
Như vậy , với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính mình ( lý trí), cùng những tình cảm , cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.
Đúng lúc Chí đang “vẩn vơ nghĩ mãi” thì thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vào.Việc làm này của thị khiến hắn hết sức “ngạc nhiên”.Rồi từ chỗ “ngạc nhiên”, Chí thấy “mắt hình như ươn ướt” ( xúc động).Bởi vì một lẽ hết sức đơn giản, đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà, mà đàn bà – trong ý niệm của hắn bề bà ba – chỉ là sự nhục nhã, đau đớn. Nay thì khác, thị Nở không chỉ đem cháo cháo đến cho hắn mà còn múc ra bát “giục hắn ăn nóng”.Hắn “húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa”.
Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị đã khiến Chí “ăn năn”,”.Hắn thấy “lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.Lúc này, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ và đâm chém người?”. Cái “bản tính ngày của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ.Chí đã đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa.
Chí mong muốn được trở lại làm người , làm một người dân hiền lành, lương thiện ở làng Vũ Đại “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện , hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!…Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
Cùng với mong ước cháy bỏng được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”- “cứ thế này” là thế nào? Đó là cứ được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị…được như thế thì “thích nhỉ”- tức là sung sướng, hạnh phúc nào bằng.
“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” – tức là về sống chung một nhà, hình thành một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc.Câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn “rất canh điền”, chất phác, giản dị.
Có thể nói đoạn văn viết về quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn….và giá trị nhân đạo của tác phẩm: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch của người nông dân. Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương. Lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực bào tàn nào có thể hủy diệt. Từ đó, nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn
Bài làm 6: phân tích chí phèo hồi sinh sau khi gặp gỡ Thị Nở
Chí Phèo” – Nam Cao là một trong những truyện ngắn với đề tài người nông dân trước CMT8 , chúng ta không thể không biết đến sự thức tỉnh của Chí Phèo. Chí Phèo trước đã là một con người chuyên rạch mặt ăn vạ, là tay sai cho Bá Kiến để đi đòi nợ. Chí Phéo cứ xoay quanh cuộc sống như vậy. Nhưng chính vào cái đêm định mệnh ấy Chí gặp Thị Nở, và sáng hôm sau tỉnh dậy Chí Phèo như đã thức tỉnh hẳn. Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở cũng làm người đọc không bao giờ quên, chỉ với một bát cháo nóng hổi, khói bốc nghi ngút đã làm Chí thức tỉnh. Chí Phèo nghĩ mình không thể sống một cuộc đời như vậy nữa. Trước khi còn trẻ Chí đã từng mơ ước có một ngôi nhà, có vợ và những đứa con. Và sự khao khát được hoàn lương của Chí Phèo đã trỗi dậy sau khi được thức tỉnh. Với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính mình (lý trí), cùng những tình cảm, cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.
Bài làm 7: Phân tích quá trình tha hóa và hồi sinh của chí phèo
Cùng với “Đời thừa”, “Giăng sáng” thì “Chí Phèo” là một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút hiện thực phê phán cùng với tinh thần nhân đạo sâu sắc được thể hiện rõ nét qua nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm. Chí Phèo được biết đến là con quỷ dữ của làng Vũ Đại – người bị cuộc đời cự tuyệt của cuộc đời. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy một người tưởng chừng bất hạnh ấy vẫn mong ước về cuộc sống rất “đời thường” với những hạnh phúc nhỏ nhoi.
Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, sau đó được một anh đi thả ống lươn nhặt được ở cái lò gạch cũ. Tuổi thơ Chí qua tay hết người này đến người kia và lớn lên trở thành một anh canh điền cho Bá Kiến. Sau đó bị vợ Bá Kiến dụ dỗ rồi khiến hắn ghen mà đẩy vào tù. Và một thằng lưu manh ra đời từ một anh nông dân sau bảy tám năm trong nhà tù thực dân.
Khi ra tù thì Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến nhằm trả thù. Lúc này thì bản chất của một tên lưu manh biến chất được thể hiện trong cách chửi rất bài bản ngoa ngoắt của hắn “…Hắn vừa đi lại vừa chửi, bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn lại chửi. Hắn chửi trời có hề gì vì trời đâu có của riêng nhà nào…”. Từ dáng hình gớm ghiếc đáng sợ của hắn cho đến cách rạch mặt ăn vạ đều cho thấy cuộc sống “khác người” của hắn. Chính xã hội phong kiến mà đại diện chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình lưu manh hóa để biến Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Thức tỉnh nhưng cũng chính là lúc hắn phải chịu thêm một bi kịch mới, đó là chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy lần đầu tiên hắn tỉnh dậy sau một cơn say dài thì điều đầu tiên là “lòng mơ hồ buồn”. Hắn bắt đầu nhận thức, hắn bắt đầu tỉnh táo dần. Nhưng nỗi buồn ấy có phần mông lung, chưa rõ ràng.
Tiếp đến đó chính là “chao ôi là buồn”. Đây là một nỗi buồn có phần thấm thía day dứt đối với hắn. Nếu ở trên nỗi buồn chưa có nguyên nhân thì ở đây nỗi buồn ấy lại có nguyên nhân rõ ràng, đó là hắn đã nghe được tiếng chim hót “Tiếng chim hót ngoài kia sao vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”. Những âm thanh của cuộc sống bình dị nhưng đối với Chí Phèo thì những âm thanh ấy lại quý giá vô cùng. Chính âm thanh ấy đã đưa Chí Phèo về với thực tại.
Và tiếp theo thì hắn “lại nao nao buồn”, chính cái nao nao buồn ấy đã diễn tả tâm trạng xốn xao khiến hắn thôi thúc không ngừng suy nghĩ. Hắn bắt đầu nhớ về ước mơ của chính mình “nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như đã có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn làm thuê, còn vợ dệt vải. Chúng lại bỏ thêm một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…”. Hắn chợt nhớ đến cái ước mơ bé nhỏ đến tội nghiệp.
Và hắn bắt đầu “buồn thay cho đời”, nỗi buồn ấy mang tính khái quát hơn, hắn buồn cho cuộc đời hắn, buồn cho kiếp làm người của hắn. Còn gì buồn hơn, đau đớn hơn khi chính mình lại buồn, lại chán chê cho chính cuộc đời mình. Và hắn đã biết sợ. Hắn sợ tuổi già, sợ đói rét, sợ ốm đau. Bởi lẽ hắn ý thức được cái nghề rạch mặt ăn vạ không thể kéo dài mãi.
Hắn thấy mình đã ở bên kia cái dốc của cuộc đời nhưng hắn vẫn chẳng có gì ở trong tay. Khi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy nỗi sợ chính là dấu hiệu rõ ràng nhất chứng minh hắn đã bắt đầu trên những nấc thang đầu tiên để quay trở lại làm người. Nỗi sợ đã đánh thức phần người trong hắn.
Nối tiếp tâm trạng lần đầu tiên của Chí Phèo sau khi tỉnh dậy thì chính là tâm trạng khi thị Nở quay lại trong quá trình thức tỉnh của nhân vật. Đầu tiên, hắn ngạc nhiên. Ngạc nhiên khi thấy thị trở lại và trên tay bưng bát cháo hành. Vì lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được người ta cho một thứ gì đó mà không phải dọa nạt hay cướp giật, lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được chăm sóc.
Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhận được sự yêu thương và cũng là lần đầu tiên trong cuộc đời hắn nhận được sự quan tâm, săn sóc từ một người phụ nữ. Bởi ngay chính người mẹ sinh ra hắn cũng chưa một lần chăm sóc hắn. Hay chính bà Ba tìm đến hắn thì cũng chỉ để thỏa mãn dục vọng chứ không yêu thương gì hết.
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy bát cháo hành thị Nở bưng đến cho hắn tuy giản dị nhưng xuất phát từ sự tự nguyện, chân thành. Vì vậy, nó đáng quý biết bao. Như bị lay động, hắn đã khóc. Mắt hình như hơi ươn ướt. Hắn vô cùng xúc động, giọt nước mắt ấy xuất phát từ tận đáy lòng của hắn. Giọt nước mắt ấy minh chứng cho sự trân quý tình người mà hắn mới vừa nhận được. Giọt nước mắt thức tỉnh, lấn át phần con trong hắn. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà Nam Cao muốn truyền tải. Đó là niềm tin vào bản chất của con người.
Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo không chỉ thể hiện qua tâm trạng, hành động và cảm xúc mà còn thể hiện qua cách hắn thưởng thức bát cháo hành mà thị Nở làm cho hắn. Đó là một chuỗi hành động nối tiếp, nhìn rồi cầm, sau đó ngửi và húp và ngon. Quá trình ấy được miêu tả một cách cụ thể, tỉ mỉ. Điều ấy cho thấy sự trân trọng của Chí Phèo đối với “bát cháo tình người” mà hắn mới vừa nhận được.
Hắn đã cảm nhận bát cháo bằng tất cả giác quan. Và sau này, mùi cháo hành ấy có lẽ sẽ theo hắn suốt cả cuộc đời. Bởi vì bát cháo hành ấy không đơn thuần là bát cháo giải rượu mà đó chính là biểu tượng cho tình thương, sự chăm sóc, quan tâm cho tình yêu, tình người mà hắn vừa nhận được. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy đối với người bình thường nhận được tình yêu thương cũng không dễ dàng gì, thì đối với Chí Phèo, đó là một món quà vô giá. Vì vậy, đó là một ký ức không thể nào quên, như một sự nhắc nhở về thiên lương trong hắn vậy.
Hắn đã tỉnh, vì hắn đã trở lại nên biểu hiện tiếp theo được thể hiện rất rõ ràng đó chính là khát khao mong muốn được lương thiện của Chí Phèo. Hắn như muốn trở thành đứa trẻ thơ. Còn có cả “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn lại muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” và rồi “Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện.”
Có thể thấy những suy nghĩ ấy đã thể hiện ước muốn quay trở lại làm người lương thiện của hắn. Lúc này, hắn khát khao trở về cuộc sống bình thường. Chính tình yêu thương của thị đã vực dậy tình cảm, tình người trong hắn bấy lâu đã bị vùi lấp bởi bộ mặt con quỷ dữ. Thị đã làm hồi sinh bản chất lương thiện trong Chí Phèo và mở ra cho hắn một hy vọng, một ý nghĩa trong cuộc sống tăm tối của hắn. Qua đó, Nam Cao đã đề cao giá trị nhân đạo ở đây chính là niềm tin vào bản chất, thiên lương của con người.
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta thấy khi Chí bị cự tuyệt quyền làm người thì một trong những nguyên nhân chính là thời điểm thị rời bỏ hắn. Dường như đó chính do xuất phát từ lời nói của bà cô thị Nở rằng “Cũng có lẽ bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cuộc đời dài dằng dặc của bà, không có chồng, rồi bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức mà không ai không biết.” và “Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì lấy ai chứ?… Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu vào đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có cái nghề là rạch mặt ra ăn vạ.”.
Thông qua lời nói cho thấy lời nói của bà cô thị Nở gay gắt là đại diện cho định kiến xã hội, cho những quan niệm cổ hữu, hà khắc đã ăn sâu vào suy nghĩ của những con người lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn cho thị Nở đến với Chí Phèo là Chí Phèo không có gia đình, không có công việc ổn định. Không chỉ vậy, bà ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương đã mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn tình yêu thương.
Thị Nở như chiếc phao cứu sinh cuối cùng mà hắn là người chết đuối vừa níu được nên hắn tìm mọi cách để níu giữ cơ hội mong manh để quay trở lại làm người lương thiện. Hắn lại đi uống rượu. Hắn tìm đến men rượu để quên đi cảm giác lúc này. Nhưng càng uống hắn chỉ càng cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng. Càng uống hắn lại càng tỉnh và càng cảm thấy buồn…
Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm mặt khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn tiếc nuối cho tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực, chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường bi kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở lại thì cũng chính xã hội ấy lại không chấp nhận hắn. Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy nguyên nhân chính khiến hắn thành ra như hôm nay chính là cái mà người ta hay gọi là giai cấp thống trị – bá Kiến.
Tác giả đã khắc họa đặc sắc tâm trạng của Chí Phèo khi hắn trên đường đến nhà bá Kiến, để đòi lương thiện. Trong cơn say, Chí Phèo muốn đi đến nhà thị Nở nhưng trong vô thức hắn lại đi thẳng đến nhà bá Kiến. Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiếm bởi lẽ dường như Chí cũng ý thức được rằng chính bá Kiến là nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường này.
Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo sẽ thấy hắn tìm đến nhà bá Kiến trong một tư thế rất cao ngạo. Nhưng bá Kiến lại tưởng Chí Phèo đến xin tiền nên “ném bẹt năm hào xuống đất”. Nhưng Chí Phèo không đến đây xin tiền mà đến để đòi lương thiện, đòi lại quyền làm người của hắn. Hắn muốn trở lại Chí Phèo như trước kia. Đó chính là lý do vì sao hắn lại cao ngạo đến thế. Vì vậy, khi bá Kiến ném cho hắn năm hào, hắn cảm giác rất tức tối. Hắn đã dõng dạc mà nói “Tao muốn làm người lương thiện” – câu nói mang tính khẳng định ước muốn quay trở về làm con người bình thường, trở về làm người lương thiện như trước đây. Càng xót xa hơn khi “Ai cho tao lương thiện?” được cất lên – câu hỏi đầy đau đớn và chua xót…
“Tao không thể là người lương thiện nữa”. Và chính Chí Phèo cũng ý thức rõ rằng hắn không thể quay về được nữa. Bởi chính vì không thể tiếp tục làm con quỷ dữ, hắn lại càng không thể quay trở về làm chàng trai Chí Phèo hiền lành của trước đây, nên hắn đã giải quyết bằng một con đường khác. Chí Phèo giết chết bá Kiến và tự sát. Hành động giết chết bá Kiến của Chí Phèo như một sự “trả thù” cho kẻ đã đẩy hắn vào bước đường cùng không lối thoát.
Và dường như cũng chỉ có Chí Phèo – kẻ say nhất, điên nhất của làng Vũ Đại mới dám làm điều đó. Và hành động tự sát của Chí Phèo vừa là cách giải thoát cho cuộc đời hắn, vừa thể hiện được một bi kịch đau đớn đến tuyệt vọng. Bởi lẽ sau khi cảm nhận được tình yêu thương, sau khi ước muốn được làm người lương thiện trỗi dậy trong Chí thì hắn không thể nào quay về tiếp tục trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Hắn cũng chẳng còn có thể làm người lương thiện một lần nữa nên cái chết đối với hắn là cách giải quyết tốt nhất cho cuộc đời Chí Phèo trong hoàn cảnh xã hội.
Cái chết ấy còn cho thấy sự tuyệt vọng, đau đớn và đầy bất lực bởi khi Chí Phèo chết đi dường như không ai đau xót cho hắn mà họ còn cảm thấy mừng thầm “Trời có mắt đấy, anh em ạ!” , “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không có ai tiếc!”. Bởi lẽ họ cảm thấy chính cái chết của hắn như một sự giải thoát cho cả làng Vũ Đại. Nên họ chỉ đứng đó nhìn Chí Phèo “đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi.”.
Thật vậy, lúc hắn thức tỉnh cũng chính là lúc hắn phải biến mất. Lúc hắn muốn làm người cũng chính xã hội đã ép hắn điên cuồng khao khát lương thiện. Nhưng đổi lại hắn lại nhận được những cái nhìn thờ ơ của bao người. Không một ai chấp nhận cho hắn tồn tại trong xã hội này nữa, và cũng không một ai quan tâm đến cái khát khao được sống của hắn. Quá trình thức tỉnh diễn ra lại là mở đầu cho một bi kịch khác, đau đớn hơn, tàn nhẫn hơn. Nam Cao đã thật sự thành công trong việc mang đến cho người đọc những giá trị tư tưởng cao cả, mới mẻ và độc đáo thông qua nhân vật điển hình Chí Phèo.
Nam Cao đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu sắc với bi kịch của những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khẳng định sức sống bất diệt của thiện lương. Mong muốn một cuộc sống đời thường hạnh phúc chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát khao mà không một thế lực nào có thể hủy diệt được. Thông qua việc phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, ta còn thấy Nam Cao đã nhắc nhở và kêu gọi mọi người hãy tin vào bản chất thiện lương tốt đẹp của mỗi người, đồng thời hãy xây đắp phần người trong mỗi con người để cuộc đời sẽ ngày một đẹp hơn.
Truyện Chí Phèo là một truyện ngắn đặc sắc mang đầy tinh thần nhân văn. Một Chí Phèo tỉnh rượu giết một Chí Phèo say rượu. Chí chết đi, nhưng để lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh Chí đòi quyền sống, quyền làm ăn lương thiện và Chí chết trong một bi kịch đau đớn. Đó không phải là một tội ác, đó là sự vươn lên trong tuyệt vọng của những người nông dân thức tỉnh. Lambaitap.edu.vn chúc các bạn học tốt môn ngữ văn 11