Bài làm 1
Truyện Kiều là kiệt tác văn học bất hủ của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Thiên tài Nguyễn Du viết Truyện Kiều và khoảng thời gian sau khi đi xứ Trung Quốc trở về. Sau khi ra đời, tác phẩm nhanh chóng được nhân dân say mê đón nhận. truyện Kiều trở thành một phần tinh thần, ăn sâu vào trong đời sống văn hóa của dân tộc.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích tái hiện chân thực bức tranh tâm trang của Thúy Kiều khi bị “giam lỏng” ở lầu Ngưng Bích. Đặc biệt ở 8 câu thơ cuối, tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng được đẩy lên đến cực đỉnh, thể hiện tài năng khắc họa tâm lí con người của thiên tài Nguyễn Du.
Thân bài:
Sau khi biết mình bị Mã Giám Sinh lừa bán vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức rút dao toan tự vẫn. May thay, Tú Bà kịp thời can ngăn. Sợ mất đi vốn liếng, Tú Bà bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ hết mực. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
Vừa mới bước vào đời đã vấp phải thói đời giả trá, lừa lọc khiến nàng vô cùng đau đớn. Vừa tủi thân mình lại vừa giận số kiếp bạc bẽo. Ở lầu Ngưng Bích cô vắng, quạnh hiu nàng không nguôi nhớ nhung da diết. Mở đầu là bức tranh đặc tả tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích qua cảnh vật đìu hiu, hoang vắng đến thê lương.
* Nhìn ra cửa biển xa xa:
“Buồn trông cửa bề chiềm hôm
Thuyền ai thấp thoánh cánh buồm xa xa!”.
Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều. Tại lầu Ngưng Bích cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo. Không một biện pháp tu từ, mà gói trọn cả một tâm trạng thầm buồn “buồn trông”, một không gian buồn “cửa bể”, một thời gian đượm buồn chiều hôm của một người đang lẻ loi, ngóng đợi.
Ngay bây giờ đây, hơn lúc nào hết, nàng cần có người bạn tâm giao để giải bày tâm sự nhưng tất cả chỉ là vô vọng. “Thuyền ai thấp thoáng”, giống như một niềm tin an ủi đối với Kiều trong lúc cô đơn. Dù sao nàng vẫn còn trông thấy những hoạt động sống. Nơi biển khơi xa “thuyền ai” thấp thoáng tưởng như để hỏi nhưng không phải. Đó là tiếng kêu đau thương, là sự với tìm trong vô vọng. Nàng cố tìm một điểm tựa để nương náu tinh thần cho bớt chơi vơi. Thế nhưng càng tìm kiếm càng thấy xa vắng hơn.
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Trước mắt nàng đó là hình ảnh một “cánh buồm” nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi giữa mênh mông trời nước, bơ vơ trên mặt biển lúc “chiều hôm” vừa ập xuống… Nàng ngước nhìn xa xa phía chân trời góc bể, không thấy gì hơn ngoài cánh buồm thấp thoáng nơi khơi xa.
Từ “xa xa” gợi lên khoảng cách xa đến vô vọng. Cánh buồm là hình ảnh của con người, là nơi nương tựa tinh thần thế nhưng nó ở xa quá. Có mà như không có. Cánh buồm còn là biểu tượng của kẻ đến người đi, mang theo tin tức, đồng cảm, sẻ chia cùng con người. Tưởng như nó sẽ làm cho không gian bớt rộng, trở nên gần gũi và ấm áp hơn. Nhưng ngược lại, cánh buồm ấy chỉ thấp thoáng càng làm cho mặt biển mênh mông trở nên rộng đến vô cùng.
“Cánh buồm xa xa” lúc ẩn, lúc hiện, nhạt nhòa mờ ảo dần, vuột khỏi tầm mắt của Kiều. Con thuyền kia đang lệnh đênh trên mặt biển bay chính là hình ảnh Kiều bơ vơ, lạc lõng nơi đất khách quê người. Phải chăng thân phận nàng Kiều rồi đây cũng trôi nổi, không bến bờ neo đậu. Cảnh tượng ấy đã khơi gợi nỗi buồn trống vắng trong tâm hồn Kiều khi nghĩ đến cố hương và bóng dáng những người mến thương, yêu dấu. Không biết đến bao giờ mới trở về sum họp. Câu hỏi ấy cứ xoắn chặt lấy tâm trí nàng…
Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt. Cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu. Cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Câu thơ mang dáng dấp một câu hỏi như xoáy mãi vào tâm can người đọc bao thế hệ, để lại trong ta những nỗi niềm day dứt, trăn trở. Nàng Kiều hỏi rồi lại tự mình càng đau đớn, càng xót xa hơn. Những từ tượng hình “thấp thoáng”, “xa xa” gợi lên hình ảnh mơ hồ của con thuyền hay chính là nỗi nhớ mong vô vọng. Âm điệu thơ rã rời, trầm lắng hẳn…
* Nhìn dòng nước chảy:
Trong tầm nhìn gần hơn, có biết bao hình ảnh thiên nhiên chợt ùa vào trong mắt Kiều. Trên dòng nước uốn quanh, bông hoa lững lờ trôi, bất giác nàng nghĩ đến phận mình:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Đọc câu thơ ta hình dung một “ngọn nước” đổ mạnh, cuốn theo nó là cánh hoa bé nhỏ trôi về phương trời vô định. Cánh hoa bọt bèo kia hay chính là thân phận nàng Kiều chìm nổi, lênh đênh giữa dòng đời mênh mang. Cánh hoa ấy đang bị vùi dập như cuộc đời “bạc mệnh” của Thúy Kiều. Hình ảnh “hoa trôi”, “về đâu” gợi cảm ấy khiến cho Kiều “man mác” buồn khi chạnh nghĩ đến thân phận bèo mây nổi trôi theo dòng đời chấp chới.
Trước mắt, Kiều vẫn chưa biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa biển đời rộng lớn này. Số phận nàng dường như một ẩn số với bao điều tăm tối. Còn gì đau đớn, xót xa hơn khi con người ta đã bị mất quyền làm người, tồn tại mà như bị phủ nhận, bị lãng quên. Nỗi đau trong lòng nàng Kiều nghe sao tê tái, thê lương.
* Nhìn vào nội cỏ, mặt đất mịt mờ:
Nỗi lòng ấy, tâm sự ấy không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục lan ra, bao trùm cảnh vật:
“Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Nội cỏ “dầu dầu”, chân mây, mặt đất “xanh xanh” tuy đầy màu sắc mà ảm đạm vô cùng. Sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Cảnh vật úa tàn hay chính cuộc đời, tâm hồn nàng Kiều đang một ngày tàn tạ, héo úa. “Màu xanh xanh” ấy gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Nàng dường như mất cả nhận thức về thế giới thực tại, tâm trạng rơi vào trạng thái bấn loạn, hoang mang tột độ. Cái “màu xanh xanh” ấy không còn là màu của cỏ cây mà đó là màu của tâm trạng – một tâm trang hoảng hốt và sợ hãi. Có còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cạnh lệ trắng điểm một vài bông hoa”.
Cái màu “xanh xanh” héo hắt, ủ dột, cạn kiệt sức sống như ngọn cỏ vàng trên nấm mộ hoang lạnh của người kỹ nữ Đạm Tiên ngày nào mà nàng đã bắt gặp trong lễ hội Thanh minh năm ấy:
“Sè sè nắm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
Hình ảnh cánh đồng cỏ “xanh xanh” già cỗi, héo úa trải dài “chân mây mặt đất” mờ mịt, xa xâm quá, phải chăng tương lai phía trước của Thúy Kiều cũng rất mịt mờ cùng quẫn, bế tắc, không lối thoát hay đó cũng chính là nỗi buồn vô tận cho cuộc sống tẻ nhạt, vô vị mà nàng đang phải cắn răng chịu đựng.
* Nhìn vào chính tâm hồn của mình:
Đến hai câu thơ cuối, Kiều như đã rơi vào hoang tưởng, bế tắc tột cùng:
“Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”…
Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy hay chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Thiên nhiên thật là dữ dội, tiếng sóng biển “ầm ầm” quanh bốn phía hòa với những cơn “gió cuốn” gào thét nổi lên khiến cho Kiều vừa buồn, vừa lo sợ hãi hùng khi nàng mường tượng đến chặng đường đầy bão tố đang sấp ập lên cuộc đời mình. Tiếng sóng biển – hay cũng chính là tiếng lòng sóng lòng, tiếng sóng cuộc đời vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh, muốn hất tung người con gái đơn côi yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đờ nhỏ bé, chông chênh.
Thực ra, xung quanh nàng nào đâu có gió, có sóng. Gió cuốn mặt dềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là do ảo giác mà ra. Nõi sợ hãi, đau đớn, tuyệt vọng đã hoàn toàn chiếm lĩnh lấy tâm hồn và toàn bộ lí trí của nàng. Giờ đây tất cả đều vô hình, chỉ có nỗi đau hiện hình, xoắn lấy và hành hạ người con gái nhỏ bé đã bất lực trước cuộc đời nghiệt ngã.
Những thành công nghệ thuật của Nguyễn Du trong đoạn trích:
Nguyễn Du đã rất thành công khi khắc họa đậm nét tâm lí nhân vật. Ông đã để cho Kiều nhìn cảnh vật bằng chính tâm trạng của mình nên mỗi cảnh vật đều gợi lên những bất hạnh khổ đau của cuộc đời nàng. Vương trong con mắt người con gái bán mình đang “buồn trông”, mọi hình ảnh vừa chìm, trôi dạt, vừa có cái gì như mờ mịt, nhạt nhòa. Đấy là những hình ảnh thật hay hình ảnh tưởng tượng, huyễn hoặc trong tâm trạng cô thiếu nữa đáng thương.
Cách sắp xếp trình tự miêu tả ở đây khiến ta cảm thấy được nỗi buồn như đang dồn đuổi nàng… Mỗi cảnh vật đều khơi gợi cho nàng buồn với những cung bậc khác nhau: nỗi buồn vì nhớ mong chờ đợi, nỗi sầu khổ băn khoăn day dứt cho số phận, sự chán ngán thất vọng cho hiện tại và bàng hoàng ghê sợ kinh hoàng khi dự cảm đến tương lai…
Điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông” giống như một điệp khúc trong khúc ca sầu thảm, tạo cho ta cảm giác nỗi buồn ấy cứ trở đi, trở lại khôn nguôi, dai dẳng, triền miên, đang ngày một thấm sâu vào tâm hồn Thúy Kiều, nhuộm lên cảnh sắc thiên nhiên, nỗi buồn mênh mang trời đất, thấm đẫm cả không gian, thời gian.
Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lần, thanh y hai lượt”.
Âm điệu trầm lắng của đoạn thơ cùng với cách lựa hình ảnh, sắc màu, âm thanh, đường nét của tác giả trong đoạn thơ này thật dụng công. Tất cả đều phù hợp với tâm trạng của nhân vật. Đọc đoạn trích, ta thấy hình ảnh con người cứ mờ dần đi, chỉ còn lại tâm trạng nổi bật lên trên khung cảnh thiên nhiên. Từng lời thơ giống như tiếng lòng nàng Kiều đang thổn thức, tái tê.
Toàn bộ đoạn trích kết hợp lại thành một bức tranh mà trong đó tâm cảnh hòa lẫn với ngoại cảnh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thật tài hoa, đặc sắc biết bao. Nghệ thuật ấy đã trở nên quen thuộc trong văn chương kim cổ, góp phần vào sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều”. Không chỉ “tả cảnh ngụ tình”, đoạn trích còn dự báo cả tương lai, số phận của nhân vật. Đúng như Kiều âu lo, sau chặng đường “bình yên trước cơn bão tố”, nàng đã rơi vào bẫy của Sở Khanh và Tú Bà để tiếp tục trở lại lầu xanh ô nhục.
Kết bài
Qua việc vận dụng ngòi bút miêu tả tinh tế, điêu luyện, chọn lọc hình ảnh tiêu biểu kết hợp với một giai điệu trầm buồn và bằng cả bức tranh thiên nhiên trữ tình tuyệt tác, đoạn thơ đã diễn tả tinh tế, chân thật tâm trạng “ngổn ngang trăm mối” của nàng Kiều trong một “chặng đường yên tĩnh trước cơn bão tố”… Nguyễn Du thực sự là một bậc thầy trong việc sử dụng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” và nhiêu bút pháp nghệ thuật đặc sắc khác.
Bài làm 2
Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Thật vậy, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình, tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vậy. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác dụng sâu xa đến cảm xúc thẩm mĩ của người đọc. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bức tranh như thế. Cho nên, có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” được sách tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (gia biến và lưu lạc).
Bị Mã Giam Sinh đẩy vào lầu xanh rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ vốn liếng “đi đời nhà ma”, mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thwucj hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình. Và thế là, theo những dòng thơ, tâm trạng Kiều cứ theo cảnh mà hiện ra:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Một khung cảnh thiên nhiên mông mênh vắng lặng, heo hút không một bóng người. Trong đó, chỉ có “vẻ non xa, tấm trăng gần” nàng như đang ở chung với Kiều và nỗi buồn của nàng như đang lan tỏa ra cảnh vật. Cảnh có nét đậm (tấm trăng), nét nhạt (vẻ non), vừa xa vừa gần, vừa mờ và tỏ, mênh mông bát ngát càng tô đậm cô đơn, lẻ loi, trơ trọi. Quay nhìn bốn phía cũng chỉ thấy: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những cồn cát vàng nhấp nhô, những đám bụi hồng trải khắp dặm xa,…Những vế câu đối xứng nhau và những từ “xa – gần” , “nọ – kia” tầng tầng, lớp lớp gợi nỗi lòng ngổn ngang, bề bộn trong tâm trạng Thúy Kiều.
Ngắm cảnh nghĩ đến mình, Kiều càng thấm thía nỗi buồn:
“Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Nơi đất khách quê người thân bị giam lỏng, cô bé bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn mới mây, khuya làm bạn với đèn, thao thức, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đớn đau…
Trong tình cảnh ấy nàng đau đớn nhớ đến Kim Trọng, người đã cùng nàng thề nguyền gắn bó:
“Tưởng người dưới guyệt chén đồng
Tim sương luống những rày trông mai chờ”
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Mới hôm nào đây, chén rựu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà đã hai phương trời cách biệt! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắ mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng yêu và hiểu Kim Trọng, chắc lúc này, chàng đang khắc khoải: “rày trông mai chờ” tin tức nàng. Nàng lại thương thân mình “bơ vơ” nơi “góc bể chân trời” và tấm lòng son sắt thủy chung không gì làm cho phai được. Kiều thật là người tình thủy chung. Tuy đã bán mình chuộc cha, chữ hiếu phần nào đã đền đáp, nhưng nàng luôn xót xa nhớ thương cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ. Nàng xót xa khi tưởng tượng thấy cha mẹ đang “tựa của hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì thời gian trôi đi, cha mẹ sẽ ngày càng già yếu mà nàng thì xa xôi cách trở. Những điển tích, điển cố “Sân Lai”, “gốc từ” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo.
Nỗi buồn xâm chiếm hết nỗi lòng Kiều xuyên thấu vào cảnh vật:
“Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
tám câu thơ vừa là nhạc vừa là họa. Đó là khúc nhạc buồn thấm thía. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh: “thấp thoáng, xa xa , man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. những từ ấy cộng hưởng với từ “buồn trông” trỗi lên ở đầu các câu lục bát tạo nên một hợp âm dồi dào các thanh bằng có sức ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm thấm thía. Sóng âm thanh huyền diệu đó chuyển tải các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Không nhìn bằng mặt, ta vẫn cảm nhận được những bức tranh tâm tình từ tiếng lòng Kiều vẽ ra.
Trước hết là cảnh chiều hôm trên cửa biển cới “Thuyền ai thấp thoáng cách buồm xa xa”. Mấy chữ thôi mà mở ra một tâm trạng thấm buồn (cửa bể), một thời gian đượm buồn (chiềm hôm) của người đang lẻ loi ngóng đợi.Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa của ai đó sẽ đi về đâu? Phải chăng về nơi quê nhà thân yêu? Thơ cổ vẫn dùng hình ảnh ấy để biểu hiện nỗi nhớ nhà của khách tha hương. Cảnh hai là cánh hoa trôi trên ngọn nước:
“Buồn trông ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Hình ảnh nước từ cao đổ xuống vỡ tung tóe phải chăng như thân phận bị vùi dập của Kiều? Trên dòng nước ấy, một cánh hoa lẻ loi bị đưa đẩy trôi đi lặng lẽ đến một phương trời vô định. Đây là hình ảnh thật hay chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong tâm hồn cô gái đáng thương?Từ cảm nhận cái hữu hình, Kiều như nhìn thấy được cái vô hình: số kiếp hoa trôi bèo nổi của mình…
Cảnh tiếp theo là cánh đồng cỏ trải dài vô tận, mặt đất chân mây chỉ một màu xanh xanh:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Không phải một màu xanh xanh đầy sức sống mà chỉ là một màu “rầu rầu” héo úa và chỉ một màu thôi, mênh mông bát ngát. Cảnh ấy như gợi nỗi buồn thương vô vọng kéo dài như gợi nỗi buồn chán cuộc sống vô vị tẻ nhạt, thiếu sinh khí ở nơi cô quạnh này.
Cảnh vật trong những câu thơ trên buồn và vắng lặng. Ở hai câu cuối , cảnh cũng buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà vang dội dữ dội:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Cơn gió mạnh cuốn trên mặt “duềnh” , ầm vang tiếng sóng, bủa vây xung quanh đến choáng ngợp. đó là cảnh thực hay chỉ là hư ảo? Hay chỉ là nỗi ám ảnh lo sợ trước những tai biến sắp ập đến cho cái số kiếp mỏng manh của Kiều? có điều chắc chắn đó là tiếng sóng dội ra từ mảnh hồn cô đơn tội nghiệp àm nên vần nên điệu.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật , cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Mới hôm nào đây, chén rựu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà đã hai phương trời cách biệt! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắ mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng yêu và hiểu Kim Trọng, chắc lúc này, chàng đang khắc khoải: “rày trông mai chờ” tin tức nàng. Nàng lại thương thân mình “bơ vơ” nơi “góc bể chân trời” và tấm lòng son sắt thủy chung không gì làm cho phai được. Kiều thật là người tình thủy chung. Tuy đã bán mình chuộc cha, chữ hiếu phần nào đã đền đáp, nhưng nàng luôn xót xa nhớ thương cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ. Nàng xót xa khi tưởng tượng thấy cha mẹ đang “tựa của hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì thời gian trôi đi, cha mẹ sẽ ngày càng già yếu mà nàng thì xa xôi cách trở. Những điển tích, điển cố “Sân Lai”, “gốc từ” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo.
Nỗi buồn xâm chiếm hết nỗi lòng Kiều xuyên thấu vào cảnh vật:
“Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
tám câu thơ vừa là nhạc vừa là họa. Đó là khúc nhạc buồn thấm thía. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh: “thấp thoáng, xa xa , man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. những từ ấy cộng hưởng với từ “buồn trông” trỗi lên ở đầu các câu lục bát tạo nên một hợp âm dồi dào các thanh bằng có sức ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm thấm thía. Sóng âm thanh huyền diệu đó chuyển tải các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Không nhìn bằng mặt, ta vẫn cảm nhận được những bức tranh tâm tình từ tiếng lòng Kiều vẽ ra.
Trước hết là cảnh chiều hôm trên cửa biển cới “Thuyền ai thấp thoáng cách buồm xa xa”. Mấy chữ thôi mà mở ra một tâm trạng thấm buồn (cửa bể), một thời gian đượm buồn (chiềm hôm) của người đang lẻ loi ngóng đợi.Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa của ai đó sẽ đi về đâu? Phải chăng về nơi quê nhà thân yêu? Thơ cổ vẫn dùng hình ảnh ấy để biểu hiện nỗi nhớ nhà của khách tha hương. Cảnh hai là cánh hoa trôi trên ngọn nước:
“Buồn trông ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Hình ảnh nước từ cao đổ xuống vỡ tung tóe phải chăng như thân phận bị vùi dập của Kiều? Trên dòng nước ấy, một cánh hoa lẻ loi bị đưa đẩy trôi đi lặng lẽ đến một phương trời vô định. Đây là hình ảnh thật hay chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong tâm hồn cô gái đáng thương?Từ cảm nhận cái hữu hình, Kiều như nhìn thấy được cái vô hình: số kiếp hoa trôi bèo nổi của mình…
Cảnh tiếp theo là cánh đồng cỏ trải dài vô tận, mặt đất chân mây chỉ một màu xanh xanh:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Không phải một màu xanh xanh đầy sức sống mà chỉ là một màu “rầu rầu” héo úa và chỉ một màu thôi, mênh mông bát ngát. Cảnh ấy như gợi nỗi buồn thương vô vọng kéo dài như gợi nỗi buồn chán cuộc sống vô vị tẻ nhạt, thiếu sinh khí ở nơi cô quạnh này.
Cảnh vật trong những câu thơ trên buồn và vắng lặng. Ở hai câu cuối , cảnh cũng buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà vang dội dữ dội:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Cơn gió mạnh cuốn trên mặt “duềnh” , ầm vang tiếng sóng, bủa vây xung quanh đến choáng ngợp. đó là cảnh thực hay chỉ là hư ảo? Hay chỉ là nỗi ám ảnh lo sợ trước những tai biến sắp ập đến cho cái số kiếp mỏng manh của Kiều? có điều chắc chắn đó là tiếng sóng dội ra từ mảnh hồn cô đơn tội nghiệp àm nên vần nên điệu.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật , cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Bài làm 3
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm bất hủ đã đi sâu vào lòng con người như một áng văn chương đan xen giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở áng văn này, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã phác họa lên một bức tranh hữu tình, nên thơ với nàng Kiều “tài hoa bạc mệnh” và những nhân vật được đúc tả từ chính những con người trong thế giời hiện thực vô cùng sống động nhưng cũng đầy ai oán. Ai oán một chế độ xã hội bất công, nơi mà con người ta bị dồn nén đến bức đường cùng nhưng ở đó vẫn còn những tia sáng nhỏ nhoi, rực rỡ trong màn đêm đen tối, mù mịt. Trong đoạn trích “Kiểu ở lầu Ngưng Bích”, nhà văn Nguyễn Du đã khắc tả thành công nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình nhưng cũng xót thương cho chính thân phận hẩm hiu và dự cảm về một tai họa đang rình rập ở phía trước. Cảm xúc hỗn loạn, đầy khắc khoải, trăn trở của nàng Kiều đã tạo nên nét độc đáo cho đoạn trích này.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn thứ 2 của phần “Lưu lạc và gia biến”. Trong đoạn trích, tâm trạng của Thúy Kiều như đan xen giữa: buồn – cô đơn, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình và lo lắng cho số phận của mình.
Tác giả đã thâm nhập vào nhân vật để cùng đồng cảm, cùng hoang mang và lo sợ với Thúy Kiều. Đó là sự thương xót với nhân vật nhưng đồng thời là thể hiện cái nhìn ngợi ca đầy chân trọng, đó như một lời khen, một tiếng yêu thương mà tác giả đã dành cho nhân vật. Trong tiếng nức nở của Thúy Kiều còn có cả tiếng khóc ai oán, bi thương. Bằng thể thơ lục bát và dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du, đã tạo ra một tác phẩm tinh xảo, điêu luyện. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa tính chất bác học và tính dân gian trong cùng một tác phẩm.
Sáu câu thơ đầu hiện lên, khắc tả về một bức tranh thiên nhiên trùng điệp trước lầu Ngưng Bích và tâm trạng trầm lắng của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích phải chăng chính là một nhà tù giam lỏng tuổi thanh xuân của Thúy Kiều. Một bức tranh phong cảnh được mở ra không chỉ bởi chiều rộng mà còn cả về chiều cao và độ sâu. Cái vẻ non nước hùng vĩ, núi non trùng điệp, những thác nước chảy xuống dưới ầm ầm, tạo nên sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Chỉ cần một nét vẽ xa xôi đã gợi ra một không gian hay chính là thế giới nội tâm của Thúy Kiều.
“Cát vàng cồn nọ bụi hồng dậm kia”
Bốn bề đều gợi ra một không gian ngát ngàn hoa lá, một không gian thăm thẳm, gợi ra màu của sự hoang vu, cảnh sắc nơi này càng làm cho Thúy Kiều trở nên buồn hơn, cảm giác cô đơn lại càng khắc sâu. Sự “bẽ bàng”, xấu hổ, hổ thẹn của một con người khi phải bước chân vào lầu xanh.
Câu thơ thứ 4 tràn đầy cảm xúc, một sự giao cảm giữa con người với con người. Thiên nhiên lúc này cũng đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều, muốn chia sẻ với nàng. Sự đồng cảm của nhà thơ với nhân vật càng lớn bao nhiêu thì tình cảm của nhà thơ trong từng câu chữ lại thấm đẫm, não nề đến đó.
Trong tâm trạng bồn bề của Thúy Kiều, có nỗi nhớ Kim Trong da diết. Nàng nhớ Kim Trọng trước không phải nàng không yêu thương gia đình của mình mà trong nàng đang có sự đấu tranh gay gắt giữa chữ tình và chữ hiếu. Nàng thà hy sinh chữ tình để đặt chữ hiếu lên hàng đầu – bán thân mình chuộc cha. Như vậy, với cho mẹ, nàng đã làm trọn chữ hiếu còn đối với người nàng yêu – Kim Trọng, nàng đã phụ lời thề non hẹn biển, nàng cảm thấy mình thật là có lỗi, cảm thấy “thẹn” vì mất đi chữ “trinh” khi bị mắc mưu Mã Giám Sinh.
“Tướng người dưới nguyệt …”
Trong tâm trí của nàng lại hiện ra cảnh mình và Kim Trọng thề thốt dưới ánh trăng, càng băn khoăn, càng nhớ đến thì tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng càng trở nên tha thiết hơn:
“Tình sương luống những …”
Nàng hiểu được tình yêu mà Kim Trọng dành cho mình, thì nỗi nhớ của nàng lại càng trở nên khao khát, như hàng ngàn mũi kim đâm vào ngực làm nàng “nghẹn lại”. Tác giả đã vượt qua mội quan niệm, định kiến của xã hội để có thể đánh giá về vẻ đẹp của Thúy Kiều – thể hiện một cái nhìn đầy nhân đạo với nhân vật của mình.
Trong những câu thơ thể hiện nỗi nhớ gia đình, tác giả đã nhấn mạnh chữ “xót” – một tình cảm máu mủ ruột thịt từ đây bị chia cắt, vì những hủ tục, những bất công trong xã hội mà gia đình của Thúy Kiều hay nạn nhân chính là nàng đã phải từ giã gia đình thân yêu của mình, phải nhịn nhục như bây giờ. Trong những câu thơ, tác giả sử dụng những điển tích, điển cố: “quạt nồng, ấp lạnh, sâm lai, góc tử”- để Thúy Kiều thể hiện tình cảm đối với cha mẹ của mình, sự bất hiếu của một đứa con không thể tự tay chăm sóc cha mẹ khi về già. Sự đau khổ đến tột cùng.
Nàng nhớ người yêu, nhớ gia đình trước rồi cuối cùng nàng mới tiếc thương cho cái số phận bất hạnh của mình, tưởng đâu khi gặp được Kim Trọng cuộc đời nàng đã bước sang trang mới, những biến cố đã xảy đến với gia đình Thúy Kiều, khiến cho nàng đang bước trên những con đường tăm tối không thấy ngày mai.
Tác giả sử dụng bức tranh tứ bình: bốn phương trời khác nhau, nhưng sao nhìn đâu cũng thấy đau đớn, nhìn đâu cũng thấy bế tắc, tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ được ngân lên như chính tiếng lòng ai oán của nhân vật.
Ánh mắt buồn thẳm của Thúy Kiều không biết bấu víu vào đâu, nàng trông về phía cửa bể, nàng khao khát nhìn con thuyền phía xa để mong một sự giải thoát. Nhưng hình ảnh đó chỉ thấp thoáng, xa