Bài làm 1
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh sau đó là suy vong của đời Đường, nên đã chứng kiến tận mắt chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, bao cảnh thương tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Tất cả những cảnh ngộ éo le ấy trong đó có bản thân nhà thơ đều được ghi lại đầy đủ và rõ nét trong hầu hết thơ của ông. Ngoài giá trị hiện thực lịch sử to lớn, còn thể hiện cái nhìn yêu thương đối với nhân dân lao động. Bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá đã phản ánh được điều này.
Bài thơ này được xếp vào những bài thơ hay nhất của ông. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm trải đủ những tủi cực, đắng cay của cuộc đời bôn ba thiên hạ. Ông trở về sống ở Thành Đô, gia cảnh của ông vẫn cực khổ bần hàn, nghèo túng. Được bạn bè giúp đỡ, ông đã có một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô.
Căn nhà tranh ấy là đối tượng miêu tả trong sự chống đỡ, vật lộn với trận thu phong.
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa.
Đoạn thơ là bức tranh về một trận thu phong vào tháng tám Gió thét già. Qua cách kể của tác giả ta hình dung trận gió thu rất mạnh, trong phút chốc những tấm tranh kia bị lật tung bay khắp mọi nơi. Có mảnh tốc bay cao, bay thấp, bay xa, bay gần rải khắp bờ, treo tót ngọn cành cây, quay lộn vào mương… Thật là trớ trêu cho cảnh ngộ của ông già Đỗ Phủ, ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn mà lòng xót xa và bất lực. Vậy là thiên nhiên vô tình cũng chẳng buông tha cho người áo vải bao năm tháng bôn ba mưu sinh giờ đây mới có được ngôi nhà tranh trú mưa trú nắng.
Những năm đó loạn An Sử vẫn còn rất khốc liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, li tán, chết đói đẫy rẫy. Nhà nhà, người người bị ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có những gia đình mà đến hơn một nửa bị chết trong khói lửa sa trường.
Van rằng: có ba trai
Nghiệp thành đều đi thứ
Một đứa gửi thư nhắn
Hai đứa vừa chết trận
Đứa chết đành thôi rồi
Đứa còn đâu chắc chắn.
(Viên Lại ở Thạch Hào)
Có ba trai phải tòng quân, hai đứa chết trận, đứa còn biết sống chết ra sao. Rồi cả bà lão đã gần đất xa trời cũng phải ra chốn Hà Dương. Nghèo khổ, túng bấn cả con dâu không còn quần áo lành lặn. Hiện thực xã hội là như vậy. Một xã hội mà đảo điên, loạn li như vậy thì chắc chắn đạo đức suy đồi xuống cấp nghiêm trọng. Căn nhà đã bị gió thu phá sạch, lũ trẻ thôn Nam nghịch ngợm quá mức kéo nhau đến cướp tranh đi mất. Nhà thơ già yếu, chân chậm mắt kém làm sao đuổi được.
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Cảnh ngộ cười ra nước mắt, chống gậy quay về ngôi nhà tuềnh toàng mà lòng đau đớn, xót xa. Những bước chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực, tràn lên tận cuống họng mà không nói thành lời.
Trong lòng tác giả đang oán hận và trách móc, có chăng lũ trẻ tinh nghịch, đói nghèo thất học tràn lan. Lấy ai nuôi dạy chúng khi:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà Vua ý chưa bỏ…!
Hay:
… Cửa son rượu thịt ôi,
Ngoài đường, xương chết buốt!
Sự trớ trêu trong cảnh ngộ của Đỗ Phủ không chỉ là thu phong tốc mái căn nhà tranh mà về đêm thêm một tai hoạ mới. Mưa thu dầm dề, sùi sụt, dai dẳng kéo dài suốt đêm, kéo theo cái lạnh càng thêm lạnh. Nhà dột lung tung khác chi ở ngoài trời. Chăn, mền cũ, bị con quẫy đạp rách. Mãi chưa sáng… mưa mãi không tạnh… làm sao nhà thơ có thể ngủ được. Ông trằn trọc suốt đêm trong mệt nhọc, đói rét, lo lắng, buồn rầu, thương vợ, thương con.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót.
Đêm dài như dài thêm, ông già cũng chĩ đành cay đắng, ấm ức và bất lực ngồi đếm từng nhịp trống canh.
Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng. Một kẻ sĩ có học thức mà công danh thì lận đận, cuộc đời thì long đong, túng bấn khổ cực. Ông trách mình đã chẳng giúp gì cho vợ con và gia đình trong cảnh nghèo khổ ấy. Băn khoăn trăn trở hơn là kẻ sĩ mà chẳng giúp gì được cho đời, chiến tranh liên miên, dân chúng loạn lạc cực khổ. Càng nghĩ ông càng phê phán và lên án chiến tranh, lên án xã hội phong kiến gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình tác giả. Nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là cái khổ chung của nhân dân lao động, của các nhà nho, trí thức thời đó. Sự khốn cùng của gia đình tác giả là chứng tích cho một thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc hay đó chính là xã hội thời Đường thu nhỏ lại. Chỉ đơn thuần là nhà bị gió phá, mưa dột nghèo túng nhưng bài thơ có giá trị hiện thực to lớn, phản ánh nhiều mặt đang nóng bỏng của xã hội Trung Quốc lúc đó. Những nỗi đau của dân đen ông cũng đã từng chứng kiến nếm trải để rồi từ hiện thực của gia đình, xã hội, nhà thơ thể hiện khát vọng hoà bình, dân chúng ấm no:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Cùng với giá trị hiện thực sâu sắc của bài thơ, khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc khát vọng cao đẹp, ước mơ cao cả, vị tha. Nhà mình thì dột nát, sắp đổ đến nơi, biết bao giờ dựng lại được? Vậy mà ông luôn nghĩ tới tương lai, không hề nghĩ cho mình, gia đình, lại nghĩ đến ngôi nhà chung, to cao, rộng rãi, vững chắc muôn nghìn gian, bất chấp mưa nắng, vững như thạch bàn dành cho muôn nghìn dân đang đói rách, cơ cực bần hàn trú ngụ. Dù đau khổ chất chồng, nhưng không dập tắt được nhân tính, không làm mất được niềm tin, con người không bị hoàn cảnh đè bẹp mà ngạo nghễ vượt lên trên hoàn cảnh. Thương người là nhân, yêu người là ái. Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thực cụ thể. Điều cao cả và đáng kính trọng hơn nữa là ở chỗ mơ ước ấy mang tinh thần vị tha tới mức xả thân vì người khác. Ông vui lòng chịu chết cóng, chết rét để có được ngôi nhà trong mơ ấy.
Thực tế xưa nay không có ngôi nhà rộng muôn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng đế diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng bừng lòng nhân ái bao la của một con người từng trải qua bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Vì vậy nhà thơ mong mỏi ai ai cũng được sống cuộc sống yên ấm hạnh phúc.
Dù đã qua đi hơn mười hai thế kỷ nhưng bài thơ này vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim mỗi chúng ta bởi vì giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la luôn toả sáng trong đó.
Bài làm 2
Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Hoa với những sáng tác chạm sâu vào trái tim người đọc. Thơ ông là những bức tranh sinh động, chân thực về xã hội phong kiến, về những mảnh đời cơ cực và về những khát khao có cuộc sống bình dị nhất. Ông hiểu và thấu nỗi đau của muôn kiếp vì chính bản thân mình cũng đã trải qua. “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” được sáng tác khi ông đã nếm trải biết bao nhiêu cay đắng ở đời, phản ánh được hiện thực khốc liệt và tình yêu thương đồng loại của Đỗ Phủ.
Những năm tháng Đỗ Phủ phải sống trong cảnh nghèo khó, cơ cực. Cuộc sống gia đình ông túng thiếu, sông trong một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô.
Những ngày mưa mùa thu gió lùa đã khiến cho mái nhà tốc mái. Có lẽ đây chính là cảm hứng, cũng chính là hiện thực để cho ông viết lên những dòng thơ này.
Đoạn thơ đầu tiên viết về một trận cuồng phong tháng tám:
Tháng tám, thu cao, gió thét già
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa
Chỉ với mấy câu thơ nhưng đã khái quát được hiện thực tàn khốc từ thiên nhiên, những cơn gió tháng tám đã lật tung mái nhà tranh nghèo. Thật cảm cảnh cho mái nha ftranh rách nát của Đỗ Phủ, ông đành bất lực nhìn thiên nhiên tàn phá. Một hiện thực đầy xót xa mà người đọc nhận ra chính là thiên nhiên cứ vô tình với cuộc đời nhiều đắng cay của một người vẫn mải miết cống hiến cho đời những vần thơ thật đẹp.
Đây cũng chính là thời điểm loạn lạc mà nhân dân Trung hoa phải đối mặt và trải qua. Binh biến loạn lạc, người dân mất nhà mất cửa, mất người thân, đạo đức suy thoái nghiêm tròng. Đỗ Phủ bất lực nhìn xã hội đnag rơi vào ngõ cụt:
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức
Nhà thơ già dẫu có “gào” khô cả môi cũng không ai thấu, không ai hiểu, đành ngậm ngùi “chống gậy lòng ấm ức”. Nỗi xót xa hiển hiện ngay trong từng câu từng chữ càng khiến người đọc không kìn được cảm xúc. Xã hội tàn khốc, lòng người lạnh lẽo làm sao cứu vãn nổi.
Và tác giả như trào ra sự căm tức và oán hận:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ
Hiện thực chiến tranh tàn khốc đang phô bày ra trước mắt nhưng nhà vua nào đâu có thấu, có hiểu. Những năm tháng chinh phạt đã khiến cho cuộc sống của nhân dân thêm lầm than và rơi vào ngõ cụt không thể cứu vãn.
Cảnh mưa gió ngày thu tàn phá căn nhà khiến cho Đỗ Phủ không thể chợp được mắt, thương vợ, thương con và thương chính bản thân mình:
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót
Câu thơ như cứa vào lòng người nỗi khắc khoải, xót xa cho một kiếp người, kiếp nghèo long đong lận đận.
Nỗi đau đớn, tủi nhục của một người tài giỏi nhưng lận đận, tù tùng, cái nghèo cứ bám riết lấy. Ông tự trách bản thân mình vô dụng không thể đỡ dần, giúp đỡ cho vợ con. Đất nước chiến tranh loạn lạc, nhân dân lầm thân. Một bức tranh hiện thực xã hội trung hoa nhiều xót xa và nước mắt. Bằng ngòi bút chân thực, ông đã vẽ lên trước mắt người đọc hiện thực xã hội nhiều ám ảnh.
Và rồi ông càng mong muốn, càng khát khao được ấm no và mong và nhân dân qua khỏi cơ cực, nhọc nhằn:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn
Than ôi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được.
Đây là một khổ thơ giàu giá trị nhân đạo, là tấm lòng cao cả, vị tha và đầy yêu thương của nhà thơ nghèo Đỗ Phủ dành cho nhân dân Trung Hoa.Niêm ao ước có căn nhà rộng “muôn ngàn gian” để giúp cho nhân dân đỡ lạnh, đỡ khổ trong những ngày mưa gió. Ước muốn nhỏ nhoi ấy đã nói lên tấm lòng yêu thương vô bờ bến của ông dành cho những người nghèo khổ như ông. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là ông không “ước’ cho mình, chỉ ước cho mọi người. Câu thơ cuối thực sự khiến người đọc nghẹn ngào:
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được
Dù nghèo đói, dù cơ cực nhưng ông vẫn tràn đầy lòng vị tha. Dù chịu cánh “chết rét” ông cũng can tâm để mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ đã phản ánh được hiện thực của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, đồng thấy người đọc thấy được tấm lòng nhân ái, vị tha của ông đối với cuộc đời, với mọi người.
Bài làm 3
Đời Đường ở Trung Quốc (618 – 907), thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và đạt được những thành tựu cực kì rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng 48.000 bài thơ, thơ Đường được liệt vào bằng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong đó Đỗ Phủ ('712 – 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là “thi thánh"; ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo việc đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo thể hiện rõ trong hơn 1.400 bài thơ ông để lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một “nhà thơ dân đen”. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
Bài ca nhà tranh bị gió thu pháđược xếp vào số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761?), được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An – Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ “ca” trong bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể “ca” này: Thu phố ca (Lí Bạch), Thiên Dục phiêu Đồ ca (Đỗ Phủ), Trường hận ca (Bạch Cư Dị)…
Muốn cảm nhận Bài ca nhà tranh bị gió thu phá này, có lẽ nên đọc lại bài thơ Nhớ em của Đỗ Phủ. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
“Chạy loạn sang châu Tế Nghe em đói rét hoài
Đường thăm còn vướng giặc Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn Buồn phiền lúc ốm dai
Phó cho dòng nước chảyNghìn vạn mối sầu dài!”
(Nhượng Tông dịch)
Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá gồm có bốn phần: năm câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, năm câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; tám câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; năm câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 “gió thét già”. Ba lớp tranh trên ngôi nhà của Đỗ Phủ bị “cuộn mất” bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh “treo tót ngọn rừng xa”. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước. Chữ “tranh” (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả năm câu thơ đều được gieo vần bằng: “hào – mao – giao – sao – ao”, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu vần thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, dịch giả Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ý nghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: “già – ta – xa – sa”.
Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo đến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là “đạo tặc” – đám kẻ cướp. Chúng khinh nhà thơ “già yếu”. Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van “môi khô miệng chảy gào không được”. Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên “cắp tranh đi tuốt vào lũy tre” chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp “đạo tặc”, đó là lũ “quần đồng” hạ lưu, những “tiểu tướng…” sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủi thì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau, nỗi buồn trước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ “quần đồng” vừa láo hỗn vừa gian tham.
Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực, gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách…
“Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt”.
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu đêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
“Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót?”.
Khổ thơ thứ 3, về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí!”. Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!”. Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đólà thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài Nhớ em ông đã viết: Buồn phiền lúc ốm dai – Phó cho dòng nước chảy – Nghìn vạn mối sầu dài…
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba này ông lại sử dụng toàn vần trắc: “sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt”. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ. Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”.
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa., cho vợ con và bản thân ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ “muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc “Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn”. Ngôi nhà ấy để “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm:
“Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà “rộng muôn ngàn gian” như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An – Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết rét đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo việc đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu cầm – cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời.
“Dễ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
(Quốc âm thi tập)
Trở lại Bài ca nhà tranh bị gió thu phá, ta vô cùng xúc động trước lời nguyền của nhà “hàn sĩ” Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
“Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”.
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm, yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành, cảm động. Nếu thấy ngôi nhà “muôn ngàn gian” trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ “lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”.
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ Tam lại và Tam biệt, ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
Có thể nói, năm dòng thơ cuối bài thấm đẫm tình người, chứa chan tinh thần nhân đạo. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc.
Mười ba thế kỉ đã trôi qua, Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ vẫn để lại cho chúng ta nhiều rung động và ám ảnh. Ám ảnh về những đau khổ và cay đắng mà một nhà thơ vĩ đại lỗi lạc đời Đường phải nếm trải. Rung động về một ước mơ tuyệt đẹp nhưng chẳng bao giờ có được trong một xã hội loạn lạc, bất công và thối nát. Có biết được tình cảnh bi đát của Đỗ Phủ sau khi nhà bị tốc mái, ông phải đưa vợ con xuống ở trên một chiếc thuyền con rách nát lênh đênh giữa dòng sông Tương – mới cảm được phần nào ý vị đậm đà tình nhân ái của bài thơ, cũng như cái ý vị chua chát của một cuộc đời!
Bài làm 4
Đỗ Phủ (712 – 770), nhà thơ nổi tiếng đời Đường ở Trung Quốc. Tên chữ của ông là Tử Mĩ, bút hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam. Sau khi đỗ đạt, ông có ra làm quan trong một thời gian ngắn. Tướng An Lộc Sơn nổi dậy chống triều đình, Đỗ Phủ tình nguyện xin nhà vua cho đi đánh dẹp nhưng không được nhà vua tín nhiệm. Năm 759, ông từ quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam. Sống trong cảnh đói nghèo bệnh tật, mùa đông năm 770, nhà thơ qua đời trên một chiếc thuyền nhỏ cắm sào bên dòng sông Tương (tỉnh Hồ Nam).
Thời gian ở Thành Đô, Đỗ Phủ được bạn bè giúp đỡ dựng cho một căn nhà tranh bên khe Cán Hoa. Mới ở được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió thu thổi mạnh làm cho tốc mái. Xuất xứ bài thơ là từ sự việc đó.
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá phản ánh cuộc sống cơ cực của gia đình nhà thơ và thể hiện lòng nhân ái, vị tha đáng quý của nhà thơ trước những cảnh đời bất hạnh như mình:
Tháng tám thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức !
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải Cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Bài thơ gồm có bốn phần. Phần một tả cảnh gió thu cuốn mất mấy lớp tranh lợp nhà. Phần hai kể về việc lũ trẻ con hùa nhau cướp những tấm tranh. Phần ba tả nỗi khổ của gia đình Đỗ Phủ trong đêm mưa. Phần bốn là ước mơ và tấm lòng nhân ái của nhà thơ.
Phần đầu bài thơ tả cảnh ngôi nhà đơn sơ bị gió thu tàn phá:
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Đỗ Phủ đã dùng bút pháp miêu tả kết hợp với kể chuyện để nói lên nỗi khổ ghê gớm nhất của một đời người đó là cảnh sống không nhà hoặc phải ở trong một căn nhà chật hẹp, rách nát. Gió thu mạnh như thét, như gào, thổi tốc mái, cuốn những tấm tranh bay vung vãi khắp nơi. Nhiều tấm bay tít sang bên kia sông. Có tấm treo tận ngọn cây cao trong rừng xa. Có tấm rơi xuống mương sâu. Nhìn mái nhà tan nát, lòng nhà thơ cũng nát tan.
Phần hai của bài thơ tả tình thế bối rối, bất lực của vị chủ nhà đáng thương:
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Nhà thơ kể lại diễn biến sự việc bằng giọng điệu ngậm ngùi, chua xót. Bất chấp sự ngăn cản, van xin của ông lão già yếu, lũ trẻ trong thôn hùa nhau cướp giật những tấm tranh rồi chạy tuốt vào lũy tre đầu làng. Không làm gì được, không còn hơi sức để kêu gào, nhà thơ đành ấm ức chống gậy quay về, đứng run rẩy ngậm ngùi trước căn nhà tốc mái, tan hoang. Đằng sau sự mất mát về vật chất là nỗi đau nhân tình thế thái. Cuộc sống cơ cực đã biến lũ trẻ thành những đứa bé hư đốn, nhẫn tâm, không biết xót thương.
Phần ba tả nỗi khổ của gia đình Đỗ Phủ trong đêm mưa. Đây là phần cảm động nhất của bài thơ:
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót ?
Cuồng phong đã lặng. Màn đêm ập xuống, tối đen như mực. Cả gia đình khôn khổ nằm co quắp trong đông chăn đệm cũ rách, lạnh ngắt như đồng. Buổi chiều, gió nổi làm tốc mái tranh. Đến đêm, mưa lại đổ xuống rỉ rả không ngừng. Nhà dột khắp nơi, chẳng biết tránh đâu. Lũ con thơ vừa đói vừa rét cứ lục đục hoài, nằm không yên chỗ. Cảnh tình thật đáng thương!
Nhà thơ miêu tả và kể chuyện theo trình tự thời gian. Chỉ vài chi tiết: Trời thu mịt mịt đêm đen đặc… Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt, nhà thơ đã làm nổi bật được đặc điểm của mưa thu là dai dẳng và lạnh lẽo.
Suốt đêm dài, nhà thơ thao thức, trằn trọc, chỉ mong trời mau sáng. Từ độ loạn lạc tới giờ, Đỗ Phủ ít ngủ. Đêm nay, bao nhiêu nỗi khổ dồn dập đến với nhà thờ: nhà dột, mưa ướt dầm dề, các con đói lạnh…! Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê là một nét nhấn làm nổi bật nỗi khổ tinh thần của Đỗ Phủ. Ông lo cho mình một phần, lo cho thiên hạ muôn phần. Ông hiểu rằng tình cảnh gia đình mình đã khổ, nhưng nhiều người khác còn khổ hơn.
Phần bốn phản ánh ước mơ cao cả của nhà thơ.
Trong cảnh bị mưa vùi gió dập, trái tim nhà thơ quặn thắt không phải chỉ vì chuyện lều ta rách nát mà còn v&igra