Trang chủ » Bài văn phân tích bài thơ thiên trường vãn vọng lớp 7 hay nhất

Bài văn phân tích bài thơ thiên trường vãn vọng lớp 7 hay nhất

Bài làm 1
 
Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của Trần Nhân Tông.
 
   Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:
 
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
 
Bán vô bán hữu tịch dương biên
 
   Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
 
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
 
Bạch lộ song song phi hạ điền
 
   Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sao du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.
 
   Bài thơ có sự kết hợp tiểu đối và điệp ngữ một cách sáng tạo. Nhịp thơ êm ái hài hòa, giọng điệu tha thiết thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng. Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa. Đó là bức tranh phong cảnh làng quê quen thuộc ở bất cứ vùng đất nào của nước ta, chỉ bằng vài ba nét phác họa nhưng cho thấy một bức tranh thật thanh bình, yên ả.
 
   Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẻ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
 
Bài làm 2
 
Trần Nhân Tông ( 1258 – 1308,) là vị vua thứ 3 của triều đại nhà Trần. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Trần Nhân Tông không chỉ là một bậc cao minh, một nhà hiền triết mà còn là một nhà thi sĩ với tâm hồn thanh cao, trong sáng và tinh tế. Đọc bài thơ “ Thiên Trường vãn vọng” chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn tâm hồn thơ mang nặng tình cảm quê hương thắm thiết của nhà thơ: 
 
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
 
Bán vô bán hữu tịch dương biên
 
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
 
Bạch lộ song song phi hạ điền
 
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
 
Bóng chiều man mác có dường không
 
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
 
                                               ( Bản dịch của Ngô Tất Tố)
 
Phủ Thiên Trường ( nay thuộc tỉnh Nam Định) là quê hương của nhà thơ Trần Nhân Tông. Trong một lần về thăm cố hương ngắm nhìn khung cảnh làng quê, tâm hồn thi sĩ tràn đầy cảm xúc và viết nên bài thơ:
 
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
 
Bán vô bán hữu tịch dương biên
 
Bài thơ miêu tả khung cảnh buổi chiều tà, khi nhà thơ thu vào tầm mắt quang cảnh xóm làng mờ mờ trong màn sương khói. Dễ dàng nhận thấy thời gian nghệ thuật được miêu tả trong bài thơ là thời khắc hoàng hôn của  mùa thu , khi trời đất bắt đầu giăng một màn khói sương mờ ảo bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. Trong ánh hoàng hôn sương khói đó vạn vật lúc ẩn lúc hiện nhưng không mang đến cảm giác lạnh lẽo, hoang vắng và buồn tẻ . Ngược lại hai câu thơ đã tái hiện  chân thực một  không gian làng quê trong buổi chiều thu rất đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Hai câu đầu trở thành tiền đề dẫn dắt, mở ra những cảm xúc của nhà thơ về cảnh sinh hoạt đồng quê vừa thân thương vừa sinh động:
 
                                           Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
 
                                          Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng
 
Giữa khung cảnh làng quê khi màn đêm sắp buông xuống tưởng chừng như yên ắng ấy, tiếng sáo mục đồng vang lên trở thành một điểm nhấn đầy thi vị. Âm thanh đó hẳn đã rất quen thuộc đối với người dân nơi đây nhưng đối với nhà thơ – một ông vua quen sống cảnh lầu son gác tía thì nó lại gợi nhớ gợi thương đến nao lòng. Trên cánh đồng lúa mênh mông lại xuất hiện những cánh cò trắng muốt như một sự điểm xuyết khiến cho bức tranh đồng quê trở nên sinh động hơn. Khung cảnh làng quê thật yên bình, mang một vẻ đẹp vừa gần gũi vừa không kém phần thơ mộng.
 
Chỉ đôi ba nét chấm phá, lựa chọn một vài hình ảnh, âm thanh đặc sắc, từng câu thơ đều thể hiện tâm hồn thi sĩ vô cùng thư thái và đầy xúc cảm trước cảnh sắc bình dị của quê hương. Tình cảm đối với quê hương  rõ ràng không hề khiên cưỡng mà xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương nồng hậu, tha thiết. Bài thơ khiến ta hiểu thêm vì sao triều đại nhà Trần dưới sự trị vì của vua Trần Nhân Tông lại là thời kì yên bình và phồn thịnh vào bậc trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
 
Bài làm 3
 
Nền văn học Việt Nam trong thời trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn sơn ca của Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế.
 
          Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên, hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.
 
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
 
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
 
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
 
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
 
Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:
 
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
 
Bóng chiều man mác có dường không
 
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
 
Tương truyền, sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát.
 
Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả:
 
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
 
Bóng chiều man mác có dường không”.
 
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, “bán vô bán hữu” nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người cũng như lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:
 
“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
 
Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muôn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người và vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hòa với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà sáng tác những vần thơ gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy có địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
 
          Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông đã bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điều đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top