Trang chủ » Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 hay nhất

Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 hay nhất

Bài làm 1
 
Từ buổi đầu dựng nước đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong đó phải kể đến hai cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vô cùng gian khổ. Cứ mỗi lúc đất nước gặp hiểm nguy, thanh niên Việt Nam lại nô nức lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc. Và họ đã trở thành những biểu tượng người lính dũng cảm, kiên cường được khắc hoạ chân thực trong hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
 
Ở hai thời kì khác nhau, dưới hai ngòi bút khác nhau, những người lính cách mạng trong hai bài thơ đều mang trong mình phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, anh dũng, gan dạ và lòng yêu Tổ quốc sâu nặng. Họ là những người cùng chung lí tưởng, cách mạng cao đẹp là nguyện phấn đấu, hi sinh vì Tồ quốc, vì độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, sau hơn hai mươi năm từ khi Đồng chí được ra đời thì lớp đàn con, đàn cháu của những người lính thời chống Pháp từng súng bên súng, đầu sát bên đầu hay thương nhau tay nắm lấy bàn tay vẫn giữ trong mình truyền thống, tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Từ trong mưa bom, bão đạn của chiến tranh, những chiếc xe không kính lại hội tụ về đây họp thành tiểu đội xe không kính:
 
Những chiếc xe từ trong bom rơi
 
Đã về đây họp thành tiểu đội
 
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
 
Bắt tay qua của kính vỡ rồi.
 
Từ những cái bắt tay ấy, họ trao cho nhau cả niềm tin, hi vọng và sức mạnh. Nhưng, điểm khác ở họ là ý thức giác ngộ cách mạng. Những năm đầu chống Pháp, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ nên về nhận thức chiến tranh của những người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời chống Pháp.
 
Và nếu như trong Đồng chí thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính những chiến sĩ lái xe phải tắm trong mưa bom, bão đạn, phải chịu sự dày vò của thời tiết trên tuyến đường Trường Sơn hiểm trở: Bụi phun tóc trắng như người già, Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng họ vẫn bất chấp, hiên ngang để vượt qua tất cả, họ vẫn thật lạc quan, yêu đời, và tinh nghịch, vẫn giữ trong mình một phong cách rất lính. Và gia đình của họ là ở nơi chiến hào, với đồng đội thân yêu, chứ không phải là ở hậu phương, nơi có mẹ già, vợ dại, con thơ như những chiến sĩ trong tác phẩm Đồng chí.
 
Vậy là dù có ở đâu, trong thời điểm nào ta vẫn cảm thấy sự anh dũng đáng khâm phục, bất chấp khó khăn gian khổ của chiến tranh. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã hoá thân vào các chiến sĩ Việt Nam để khắc hoạ thật sinh động hình ảnh của họ, để lại cho đời những bức chân dung tuyệt đẹp.
 
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính bài tiếp theo, các em chuẩn bị trước cho phần Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí và cùng với phần Soạn bài Đồng chí để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9 hơn.
 
Bài làm 2
 
Là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã từng trải và thấu hiểu những nỗi gian khổ, vất vả của người lính. Bàn tay các anh đã từng cầm súng chiến đấu và cũng đã từng viết nhiều bài thơ về họ – những người lính can trường, dũng cảm và có tình đồng đội cao. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ hình ảnh người lính có tinh thần và tâm hồn đẹp như thế đấy.
 
Năm 1948, bài thơ Đồng chí ra đời và nhanh chóng được nhiều người yêu thích. Trong những năm bom đạn hiểm nguy nơi chiến trường, hình ảnh về người lính là biểu tượng đẹp nhất của cuộc sống và đã đi vào thơ của Chính Hữu một cách tự nhiên và đẹp đẽ. Không hẹn mà nên, những người lính gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Theo tiếng gọi cứu quốc thiêng liêng, họ tạm xa con trâu, cái cày, cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Không hề quen nhau, nhưng ánh sáng lí tưởng của cách mạng đã soi vào trái tim họ, để họ trở nên thân nhau hơn và có ý chí chiến đấu cao hơn. Cũng giống như những anh lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên:
 
Lột sắt đường tàu
 
Rèn thêm dao kiếm
 
Áo vải chân không
 
Đi lùng giặc đánh
 
Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, thiếu thốn thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước. Họ sát cánh bên nhau cùng chiến đấu dũng cảm:
 
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
 
Có khác gì đâu cái tinh thần đồng đội thiêng liêng ấy trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
 
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
 
Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, dường như trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy. Họ cầm súng, họ nhảy lên chiếc xe chuẩn bị lên đường và họ biết trước mắt họ là muôn vàn khó khăn nguy hiểm, vậy mà đâu đây vẫn có cái giọng điệu lạc quan, yêu đời, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm:
 
Ung dung buồng lái ta ngồi,
 
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
 
Họ vẫn có cái chí của người lính, họ không hề nguy hiểm, mặc những khó khăn của thời tiết của cuộc chiến, vẫn hướng trái tim về Tổ quốc:
 
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
 
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
 
Nếu trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, những người lính hiện lên với một tinh thần chiến đấu dũng cảm, tình đồng đội thiêng liêng, cao quý; thì ở trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính cao hơn. Họ lạc quan yêu đời hơn. Hình ảnh những người lính hiện lên thật trẻ trung, sôi nổi, yêu đời hơn.
 
Qua hai bài thơ, chúng ta càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của những người dân gửi gắm nơi họ. Với các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng.
 
Bài làm 3
 
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
 
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng.
 
Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.
 
Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
 
Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo cùng với những người thân. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà.
 
Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh… gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo khó.
 
Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chiạ sẻ vui buồn, gian khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái xiêt tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?!
 
Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vàọ ngày mai chiến thắng.
 
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
 
Đêm nay rừng hoang sương muối
 
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 
Đầu súng trăng treo.
 
Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống thanh bình cho dân tộc.
 
Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.
 
Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.
 
Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
 
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!
 
Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
 
Mỗi vất vả, gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
 
Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.
 
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:
 
Không có kính, rồi xe không có đèn,
 
Không có mui xe, thùng xe có xước.
 
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
 
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
 
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
 
Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.
 
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng… Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
 
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước.
 
Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu… đó là những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
 
Bài làm 4
 
Phạm Tiến Duật và Chính Hữu là hai nhà thơ đã từng sống và trải qua sự khốc liệt, hiểm nguy của chiến tranh, có lẽ chính vì thế hai nhà thơ này đã sáng tác ra Bài thơ về tiểu đội xe không kính và Đồng chí hay đến vậy.
 
Cả hai bài thơ đều ca ngợi những tấm gương yêu nước, bất chấp những khó khăn, gian khổ vì một lòng muốn bảo vệ Tổ quốc. Họ đều có những lí tưởng sống thật cao đẹp, vĩ đại, họ là những con người vì nước quên mình, sống trong chiến tranh vẫn ấm áp tình đồng đội (Đồng chí) vẫn lạc quan yêu đời (Bài thơ về tiểu đội xa không kính), ở Đồng chí toát lên sự mộc mạc, sự ấm áp của tình đồng đội, của những người anh em cùng một hoàn cảnh nghèo khó, nhưng họ vẫn luôn sát cánh bên nhau trong lúc gian khổ nhất, lúc ốm đau, bệnh tật họ đều có nhau. Còn ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính thì ta lại thấy có sự sôi nổi, ung dung lạc quan yêu đời của người lính lái xe tuy không có đảm bảo về phương tiện nhưng họ vẫn ung dung, bất chấp hiểm nguy. Cả hai bài thơ đều nói lên được sự dũng cảm của những người lính Cụ Hồ ở trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đọc hai bài thơ, ta thấy được những phẩm chất đẹp của họ nhưng đọc bài Đồng chí ta thấy có sự sâu lắng, trầm tư, còn ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính thì giọng điệu sôi nổi, lạc quan. Đó chính là sự khác nhau giữa những người lính chống Pháp và những người lính chống Mĩ. Những người lính chống Pháp thì ra đi theo sự bắt buộc bảo vệ đất nước còn những người lính chống Mĩ ra đi theo tiếng gọi bảo vệ hoà bình, bảo vệ đất nước nên họ có sự lạc quan, yêu đời, vô tư. Ý thức của những người lính chống Mĩ giác ngộ cao hơn, sẵn sàng bất chấp hiểm nguy mà không hề tiếc nuối, không có sự băn khoăn. Họ cũng có khó khăn thiếu thốn nhưng vượt lên trên tất cả họ đều chiến đấu vì Tổ quốc, vì quê nhà. Bằng những phương pháp miêu tả, tự sự, biểu cảm, hai tác giả đều khắc hoạ được hình tượng của người lính vừa đẹp vừa chân thực, mộc mạc.
 
Những bài thơ đó sẽ đi sâu vào tâm thức và tinh thần của mọi người. Nó như là một sức mạnh mãnh liệt thúc đẩy, giúp họ chiến thắng những khó khăn, gian khổ của chiến tranh.
 
Bài làm 5
 
Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết:" Không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng". Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh đối với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam là điều không dễ dàng. Tuy nhiên,Chính Hữu và Phạm Tiến Duật là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lại nhìn hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, các nhà thơ đã bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về tình yêu nước, tình đồng đội gắn bó keo sơn qua hai áng thơ " Đồng chí " và " Bài thơ về tiểu đội xe không kính "
 
Cùng khắc họa hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam nhưng bên cạnh những điểm chung vốn dễ nhận thấy, ở hai bài thơ, mỗi bài lại có những nét đẹp riêng. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948 sau chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Do ở những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến p đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của " Đồng chí" là những người lính chống Pháp , họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của miền quê lam lũ:
 
" Quê hương anh nước mặn đồng chua
 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá "
 
Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính của PTD ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kí này còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là những con người:
 
" Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ
 
Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
 
Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính p còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong " Đồng chí", tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong " Bài thơ về tiểu đội xe không kính " mới thấy xuất hiện về ý chí , tinh thần yêu nước:
 
" Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
 
Chỉ cần trong xe có một trái tim" .
 
Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mĩ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khổ mà còn trường kì nữa. Vậy nên xe hàng cùng con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồg đội đã trở thành gia đình ruột thịt:
 
" Bếp Hoàng câm ta dựng giữa trời
 
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy".
 
Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của 2 tác giả. Chính Hữu dùng bút pháp hiện thực – lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn thiếu thốn :
 
" Áo anh rách vai
 
Quần tôi có vài mảnh vá
 
Miệng cười buốt giá
 
Chân không giày "
 
Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: "Đồng chí ! " cùng những hình ảnh thơ giùa sức gợi hình " đầu súng trăng treo" . Bài thơ " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn – hiện thực . Cái khó khăn thiếu thốn không bị lảng tránh:
 
" Ung dung buồng lái ta ngồi
 
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng."
 
" ừ thì có bụi "
 
" ừ thì ướt áo ",….
 
Có thể nói, torng " Đồng chí" của CH , nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn , cực nhọc của cuộc sống kháng chiến đầy gian nan, thiếu thốn. Bài thơ " Bài thơ về tiểu đội xe không kính " của PTD lại khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời , yêu sống tinh nghịch với đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.
 
Tuy có sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của những người lính quân đời nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.
 
Vì tiếng gọi của non sông tất cả bỏ lại phía sau những " giếng nước gốc đa" , những con phố, căn nhà và cả những người thương yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ , thiếu thốn thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạng mẽ , sục sôi khí thế. Họ không hề nguy hiểm, khó khăn , vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:
 
" Súng bên súng, đầu sát bên đầu "
 
" Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
 
Chỉ cần trong xe có một trái tim".
 
Họ cũng sát cùng bên nhau , bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Nếu trong đồng chí là : " Thương nhau tay nắm lấy bàn tay " thì trong " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" hình ảnh đó đã trở nên thân quen: " Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi "
 
Không kể thiếu thốn, khó khăn , họ vẫn chấp nhận , vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng , họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm , là sức mạnh đoàn kết ở nơi mà sự sống và cái chết thật cận kề. Sống và chết, dường như trong trái tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy . Bàn tay giao cảm thay cho lời nói :
 
" Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
 
Điều chưa nói bàn tay đã nói " ( Lưu Quang Vũ )
 
Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẻ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ , họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả torng phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.
 

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top