Trang chủ » Cảm nhận hai khổ cuối bài thơ Tràng giang

Cảm nhận hai khổ cuối bài thơ Tràng giang

Bài làm 1

Độc giả biết đến hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “Tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn, cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.

Khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kính:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhỏ bé như hình ảnh bèo cô độc, bị xô đẩy. Con người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát. Nó góp phần phủ định hiệu quả. Dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”, là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. Nhưng ở đầy, đã có sự phủ định tuyệt đối “không cầu”, “không đò”, đó lại là sự khẳng định không có bất kì tín hiệu, mối liên hệ nào để con người gần gũi nhau, giá trị sống của con người đang bị hoàn toàn tiêu diệt. Nếu bị tước đoạt những thứ giúp con người đến với nhau thì không cuộc sống không có giá trị. Phương tiện giúp con người xóa đi sự xa cách mà ở hoàn cảnh này lại hoàn toàn không có. Sự sống của con người dường như bị tiêu diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự liên hệ, cảm thông hay chia sẻ. Hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. Tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người.

Khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vờn con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. Nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, mượn từ “đùn” của nhà thơ Đường, đó là sự chuyển động từ bên trong đẩy ra bên ngoài: từng lớp mây trắng cứ bung nở, tỏa ra thành một núi bạc. “Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. Hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. Mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. Hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người. Hình ảnh “cánh chim” gợi sự sống cho cảnh vật, nhưng cánh chim nhỏ lại nghiêng đi, không chịu được sức nặng của bóng chiều đang xa xuống, tạo sự đối lập giữa cảnh bầu trời cao rộng hùng vĩ ở câu trên và cánh chim nhỏ bé ở câu dưới. Câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. Cách thể hiện nỗi nhớ nhà: không cần có yếu tố gợi nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hồn thi sĩ. Huy Cận đứng trước dòng sông của đất nước, thể hiện tâm sự của nhà thơ đối với đất nước. Người đọc nhận ra được sự cô độc của tác giả do mất quê hương, đây là một tâm trạng thầm kín, thể hiện tình yêu nước của nhà thơ.

“Tràng giang” là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. Tình yêu ấy mang tâm sự thầm kín của tác giả. Trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “Lửa thiêng”.

Bài làm 2

Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó.

Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả.

Đặc biệt là hai câu thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình.

Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác.

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật  đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu.

Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại.

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.

Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng:

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời.

Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ…

Lòng quê rờn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình.

Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ.

Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay thể hiện bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi…

Tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả.

Bài làm 3

Huy Cận nhà thơ xuất chúng của phong trào thơ mới, thơ của ông mang nhiều tâm trạng, nỗi buồn của chính thi nhân và nỗi sầu nhân thế. Đoạn cuối của bài thơ Tràng giang là một trong số đó.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ,
Chim nghiêng cảnh nhỏ :bóng chiều sa,
Lòng quê dờ dợn vời non nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
 
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
 
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
 
Tác giả đã dùng những từ láy " lớp lớp" ở đây để miêu tả rõ hình ảnh của nhưng đám mây nhiều nó từng lớp từng lớp đã làm bạc đi cả bầu trời, câu thơ :"lớp lớp mây cao đùn núi bạc " nàa thơ đã dùng biện pháp so sánh ẩn dụ và bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
 
”Mặt đất mây đùn cửa ải xa” để tô thêm vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ tác giả đã so sánh màu của những đám mây với" bạc" một cách so sánh khá khéo leó. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Trời mây thì bao la, rộng lớn như vậy còn chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng một cách bình thường mà "chim nghiêng cánh nhỏ :bóng chiều sa":Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.có lẽ những đàn chim đang vội vã bay về tổ ấm của mình để tránh được cái " bóng chiều sa".Dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay vể tổ ấm của mình đề tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều tà đang đè nặng xuống mình? Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
 
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"lòng quê dờn dợn vời non nước"
 
LÒNG QUÊ ở đây muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của nhà thơ , sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác , quê mùa. hai từ "dờn dợn " cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? "Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Hai từ "dờn dợn "còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục ,nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là 'dờn dợn ' mà chưa phải là cuồng nhiệt. câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước. hay trong chuyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là nhà khi:
 
"bốn phương mây trắng một màu
trông vời cố quôcbiết đâu là nhà"
 
kiếu nhớ quê nhà nhưng bốn phương đều là một màu làm sao để nhận ra được đâu là nhà hay trong cuộc sống của cô như thế thì sẽ biết về đâu và đâu sẽ là nhà?vâng lòng nhớ quê hương được gợi lên bởi từ” mây trắng ", cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở từ" con nước'. tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng:
 
"không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" 
 
Nhà thơ đã mượn từ "khói " trong thơ của nhà thơ thôi hiệu để nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ Tô Hiệu nói" trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" thì nhà thơ HUY
CẬN không có "khói " nhưng vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thàn. nhà thơ tô hiệu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cách chung nhưng ở đây nhà thơ huy cận đã khẳng định "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" câu thơ rất mạnh mẽ dứt khoát . Xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt , quê nhà cách xa , khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh không gian hoang vắng ,sóng "gợn tràng giang "khíến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ám áp vá là tổ ấm hạnh phúc đối với ông.thôi hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô , đó là lòng khát khaôột cõi quê hương thực tại còn Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình ,hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông. Bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn , nỗi nhớ nhung quê hương của tác giả. Nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
 
Thơ mang đậm nét buồn , buồn ở đây không phải là buồn do cảnh vật tàn phai , không gian chật hẹp , tù túng hay chết chòcma buồn vì cái đẹp thiếu tình người ,từ một sự mất mát các mối liên hếco tính phổ quát gây nên.một cái buồn đậm màu triết lí , nỗi buồn đó cũng phản ánh sự thay đổi đòi sống xã hội , khổ thơ cũng muốn nói lên nỗi buồn của những ai khi phải xa quê hương.

Bài làm 4

Trong Thơ Huy Cận ta thấy như rượu đang lên men, căng tràn nhựa sống. Cái hồn thơ bề ngoài thì lặng lẽ nhưng lại rất cao, rất rộng mà không dễ gì nắm bắt được. Tràng Giang là một trong những bài thơ như vậy

Đọc "Tràng giang" – bài thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà cốt cách Đường thi mà giản dị mới lạ, độc đáo in rõ dấu ấn của thơ lãng mạn đương thời – mới thấy nhận định trên là đúng.

Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,

Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.

(Lê Vy)

Hai khổ cuối của bài thơ đã góp phần tạo nên điều ấy:

…Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Âm hưởng trầm trầm, chất ngất u buồn của những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ cuối. Từ một cành củi khô ở trước đến hình ảnh "bèo dạt" vô định vô phương ở sau đều gợi lên sự chia li "tan" mà không "hợp".

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trước cảnh "mênh mông" sông dài trởi rộng, cánh bèo xanh nổi như nét điểm xuyết gợi lên cả kiếp người: bé nhỏ và vô định. Hình ảnh không phải mới, vốn dĩ đã xuất hiện khá nhiều trong ca dao và thơ cổ nhưng đặt trong dòng "Tràng giang" vẫn đủ sức khiến người thưởng thức cảm nhận rõ rệt thêm cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa.

Cảnh bao la nhưng vắng bặt bóng dáng con người. Điệp từ "không" như điểm nhấn cho sự vắng ở đây. Song nhưng không có "đò", không hề có cảnh "cô chu trấn nhật các sa miên" hãy "bến My Lăng nàm không thuyền đợi khách". Cả dáng cầu nghiêng nghiêng, "cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu" cũng không hề xuất hiện, tất cả đều "lặng lẽ", chỉ có thiên nhiên "bờ xanh" nối tiếp thiên nhiên (bãi vàng).

Gam màu lạnh. Cảnh quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u buồn càng chất ngất u buồn hơn. Cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian?

Huy Cận là một nhà thơ mới, ảnh hưởng khá nhiều dòng thơ lãng mạn Pháp. Thế nhưng, ông còn là người thuộc nhiều, ảnh hưởng nhiều phong cách trang trọng, cố kính của thơ Đường. Cốt cách ấy được thể hiện rõ nét trong khổ thơ cuối:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Bậc thánh thi Đỗ Phủ đời Đường thường có câu:

Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top