Trang chủ » Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Bài làm 1

Hàn Mạc Tư là nhà thơ tài hoa của dòng văn học lãng mạn. Thơ ông mang nhiều màu sắc đan xen nhau tạo nên một nét riêng độc đáo. Có những vần thơ nhẹ nhàng, tinh khiết, đẹp tuyệt vời nhưng có những bài thơ mơ hồ, mờ ảo, “điên điên”. Người ta bảo như thế mới là Hàn Mạc Tử. “Đây thôn Vỹ Dạ” là bài thơ hay về tình yêu, về những trong trẻo, mát lành nhất của thiên nhiên.

Bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” như là bức thư là tác giả gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mạc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu chữ.

Mở đầu bài thơ dường như là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

“Sao anh không về chơi” khiến người đọc liên tưởng đến thần sắc của cô gái khi trách yêu chàng trai lâu lắm rồi không ghé về thôn Vỹ mộng mơ, nên thơ chơi. Thôn Vỹ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của Huế với khung cảnh trời nước mênh mông. Một lời trách nhưng thoảng chút vui tươi và chờ đợi.

Bức tranh của thôn Vỹ dần dần hiện lên qua ngòi bút tinh tế của tác giả. Ánh nắng buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, dịu nhẹ biết bao. Không gian như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai nơ đất Huế. “Vườn ai” dường như ám chỉ một khu vườn nhà ‘ai” đó mà chỉ “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc. Ngôn từ được Hàn Mạc Tử sử dụng rất đẹp, rất mềm. Màu xanh của khu vườn không phải xanh thắm, xanh nõn mà là “xanh như ngọc”. Trong trẻo, mát lành và tràn đầy sức sống.

Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ, trữ tình, tinh khôi đó có thấp thoáng bóng dáng con người. Nhưng vẫn có một sự bí ẩn nào sau gương mặt đó. Cây trúc thường biểu tượng cho người quân tử, và gương mặt chữ điền là mặt phúc hậu, tròn đầy. Có lẽ có một vị khách bí ẩn nào đó đã ghé thăm thôn Vỹ mà “ai” không hay biết.

Nhưng bỗng nhiên đến khổ thơ thứ hao, giọng thơ lạc đi, chùng xuống:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Vốn dĩ mây và gió luôn chung đường với nhau nhưng trong thơ Hàn Mạc Tử lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng. Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống dòng sông khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Nỗi buồn ở đây thật khác, mang dư vị riêng, là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê buốt. Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến tình cảnh của mình hiện tại.

Thuyền và trăng luôn là những hình ảnh gần gũi đối với thơ ca. Hàn Mạc Tử đã mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên tình cảm, nỗi lòng của mình. Đọc đến đây, người đọc dường như cảm nhận ra một điều gì đó mơ hồ, kì aaos. Đó chính là đặc trưng của thơ Hàn Mạc Tử. Không phải là con sông bình thường mà là “sông trăng” thật nên thơ, kì ảo, huyền diệu. Có lẽ đây là một đêm trăng đẹp, đêm trăng tròn đầy và viên mãn nhất. Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ nhưng không ai trả lời. Một từ “kịp” khiến cho câu thơ trở nên hối hả và gấp gáp hơn. “Kịp” trở về để làm gì? Kịp yêu kịp thương kịp chờ sao.

KHổ thơ cuối thì màu sắc kì ảo đã bao trùm, nhưng sự kì ảo trong sự cho phép của thơ ca:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn, quá đầy nên hình ảnh “khách đường xa” đã lạc bước vào giấc mơ. Vừa gần nhưng cũng vừa thật xa, không thể chạm đến được. Đó cũng chính là sự mong ngóng, đợi chờ mòn mỏi của tác giả cho một mối tình. Khổ thơ cuối với gam màu trắng chủ đạo đã càng tăng thêm tính mơ hồ, kì ảo của bài thơ.

Tác giả băn khoăn không biết mối tình của mình và cô gái xứ Huế sẽ đi đến đâu, liệu rằng Tình người ta có còn đậm đà, chân thành như lời hứa nữa không. Có cảm giác như câu thơ tan ra, lênh láng cả một vùng sông trăng huyền ảo

Bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mạc Tử là một bài thơ hay, có sức chưa lớn. Một bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ và một tấm chân tình sâu nặng.

Bài làm 2

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử

Bài thơ về xử Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Da”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế

                              Sao anh không về chơ thôn Vĩ?

                              Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế. Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

                          Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

                           Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có  nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Giữa khung cảnh thiên nhiễn trừ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu. Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng

     Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng

                    Gió theo lối gió mây đường mây

                    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

                    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

                    Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động. Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế. “Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu c, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

          Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng

                Mơ khách đường xa, khách đường xa

                 Aó em trắng quá, nhìn không ra

                 Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

                  Ai biết tình ai có đậm đã?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa……….khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu nắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, máu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế. Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiên, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng cảu chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?” Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phấp sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm

           Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyết đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương

Bài làm 3

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

   Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

   Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

   Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

   Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

   Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

   Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

   Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo nhưưong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây  

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó  

Có chở trăng về kịp tối nay ?      

   Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

   Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

 Cỏ chở trăng về kịp tối nay?      

   Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa   

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

          Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.              

   Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tôi nay?       

   Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

   Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo trắng quá nhìn không ra;           

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh         

Ai biết tình ai có đậm đà ?                 

   Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

   Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

 Ai biết tình ai có đậm đà?        

   Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top