Bài làm 1
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Cảnh hoàng hôn
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.
Bài thơ Chiều tối có sự hài hòa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.
Bài làm 2
Bài thơ "Chiều tối" của tác giả Hồ Chí Minh được viết trong tập thơ Nhật ký trong tù, ghi lại những ngày tháng tác giả chịu cảm tù đày ở nhà lao của Tưởng Giới Thạch.
Trong hoàn cảnh bị giải đi hết nhà tù này tới nhà tù khác, thân thể mệt mỏi bởi tay chân bị gông cùm xiềng xích nhưng tâm hồn của tác giả vẫn vô cùng ý chí, sắt đá, thể hiện sự lãng mạn và lòng yêu đời của nhà thơ.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn được tác giả Hồ Chí Minh phác họa lên một bức tranh thiên nhiên, với đầy tính thi vị, không gian bao la mênh mông trên bầu trời những đàn chim sau một ngày mỏi mệt tìm kiếm mưu sinh chúng đang vội vã tìm về tổ của mình để nghỉ ngơi.
Những chòm sao lơ lửng lững lờ trôi trong không trung thể hiện sự an nhàn thảnh thơi của mình khác hẳn với sự vội vã của đàn chim. Cảnh vật thiên nhiên khiến cho người chiến sĩ cách mạng, người tù tuy mệt mỏi về thể xác sau những hành trình áp giải, vẫn không thể nào làm ngơ trước cảnh vật thiên nhiên, núi non hùng vĩ, con người thi vị.
Thiên nhiên chính là nét chấm phá độc đáo gợi lên khung cảnh vô cùng tươi đẹp, bát ngát, trong sáng êm đềm của cảnh hoàng hôn nơi rừng núi, hoang sợ. Thiên nhiên đẹp trong trẻo, một vẻ đẹp nên thơ nhưng gợi chút buồn man mác trong lòng người lữ khách.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp cổ điển làm chấm phá nhiều nét vừa quen vừa lạ trong thơ cổ điển. Tác giả Hồ Chí Minh lấy cánh chim làm cảnh động cho buổi chiều hoàng hôn, đối lập với sự tĩnh lặng của không gian, nó làm cho bức tranh chiều tối của tác giả thêm lung linh, say đắm lòng người.
Trong khong gian bao la đó, con người dường như cảm thấy mình thật nhỏ bé, cô đơn. Tác giả cảm thấy nhớ nhà nhớ quê hương của mình, biết bao muộn phiền lo lắng đang chất chứa trong tâm hồn của tác giả.
Tác giả cảm thấy nhớ quê hương, nhớ những người đồng bào đồng chí của mình. Tác giả lo lắng cho vận mệnh của quê hương dân tộc mình, khi nơi xa kia quê hương của chúng ta vẫn chìm trong sự chèn ép, áp bức của bọn thực dân. Những người dân của ta vẫn đang chịu cảnh " Một cổ hai tròng" chịu nhiều thiệt thòi, sống khổ cực, bị bóc lột, mất quyền bình đẳng.
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp cổ điển từ "Hồng" chính là nhãn tự của bài thơ. nó là hình ảnh bị dị nhưng vô cùng chân thực được tác giả ghi lại một cách tinh tế, sâu sắc. Hình ảnh con người hiện lên khi đang làm việc gợi lên sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp giản dị của cô gái khi đang làm việc thể hiện một cuộc sống thanh bình, yên vui của núi rừng sơn cước.
Hình ảnh bếp lửa lò than rực hồng mang lại cho bài thơ một luồng sinh khí mới, nó làm cho cả bài thơ như sáng bừng lên, ấm áp sự sống mới tươi vui, bình yên của nhịp sống con người.
Đồng thời nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời trong thơ của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh bị tù đày mệt mỏi, bởi sự áp giải của chế độ Tưởng Giới Thạch nhưng Bác không hề nao núng hay tỏ thái độ lo lắng sợ hãi.
Trong tâm thế nào thì tác giả vẫn luôn yêu đời tin tưởng vào con đường tương lai mà mình đã lựa chọn. Đó chính là con đường cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc, giành quyền độc lập về tay người dân lao động vô sản.
Bài thơ "Chiều tối" là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ hiện đại xen lẫn cổ điển trong thơ của Hồ Chí Minh. Bài thơ đã mang tới người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động tươi đẹp.
Đồng thời cho chúng ta thấy tâm hồn thanh cao, tinh thần lạc quan yêu đời của tác giả, dù trong hoàn cảnh nào tác giả vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống vào tương lai.
Bài làm 3
Chiều tối Là một trong những bài thơ tức cảnh sinh tình tinh giản nhất mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong Nhật ký trong tù.
Thơ của Bác thường là vậy, thoạt nhìn xem tưởng không có gì sáng tạo, vẫn chỉ là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong lối đường thi:
Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ
Cho mây trôi nhẹ giữa từng không
Thực ra, đó là hình ảnh tích cực trong mắt của người tu thi sĩ khi chiều tối nơi núi rừng.
Chiều tối là lúc mà ánh sáng ban ngày chưa tắt hẳn. Lúc ấy, giữa chốn núi rừng không có chân trời, chút ánh sáng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy thấp thoáng nơi đỉnh trời. Một cách tự nhiên, con mắt của nhà thơ ngước lên cao và nhận ra cánh chim mỏi mệt đi tìm chốn ngủ nơi vòm cây.
Cảnh vật cứ thế mà buồn, buồn man mác khi chiều tàn. Đây là giờ phút của sự sum họp, của mọi người sau ngày làm việc mệt mỏi quay quần bên gia đình nhưng, Bác lại chẳng thể có được cảm xúc ấm áp đó. Mang trong mình nỗi đau khổ sai, tù tội lại tha phương trên đất khách quê người nên chắc hẳn nỗi nhớ nhà da diết đang giày vò chủ thể trữ tình. Trong lòng Người, không lúc nào làm nguôi đi nỗi nhớ quê hương…
Tuy nhiên, thơ của Hồ Chí Minh vẫn có một điểm rất độc đáo: mạch thơ, hình ảnh thơ cũng như tư tưởng thơ ít khi tĩnh lại mà thường vận động một cách đầy khỏe khoắn và bất ngờ, hướng về sự sống và ánh sáng:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xây hết lò than đã rực hồng
Nếu như nói về cảnh thì sự chuyển cảnh trong Câu thơ này cũng rất đỗi tự nhiên. Khi đêm đã buông xuống, tấm màn đen của nó đã bao trùm lên toàn cảnh vật thì nhà thơ chỉ có thể hướng tầm nhìn về phía có ánh sáng. Đó chính là ánh sáng soi tỏ hình ảnh một cô thôn nữ xay ngô để chuẩn bị bữa cơm chiều.
Ở câu thơ thứ ba, người dịch đã thêm chữ “tối” Không có trong nguyên tác. Từ nay không sai nhưng lại làm cái tinh tế của bài thơ mất mát đi ít nhiều. Nó vừa làm lộ ý thơ, vừa khiến cho nội dung kém đi sự gợi mở.
Lê Chí Viễn còn phát hiện ra thêm một điểm vô cùng tinh vi ở câu thơ này. Đảo ngữ “ma bao túc” “bao túc mà hoàn” khiến cho câu thơ trở nên thật hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi tình theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay ngô cuối của người thiếu nữ, quay mãi, quay mãi và đến khi cô ấy phải dừng lại thì lo than đã rực Hồng, nó dịch lên một thứ ánh sáng tuyệt đẹp. Thứ ánh sáng tỏa ra từ phía lò than kia không chỉ là thứ ánh sáng thắp lên trong đêm tối tăm, mịt mù mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng mà Bác vẫn luôn luôn tin tưởng và gửi gắm. Đọc thơ Bác, buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng có lẽ là vì vậy.
Hai câu thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người đều mỏi mệt trước giờ khách tàn lụi nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin háo hức, mong chờ qua hình ảnh đúng lửa hồng. Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ sáng rực lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người được hiện lên ở trung tâm của bức tranh được nhà thơ vẽ ra đã tỏa sáng, xua tan cái cô quạnh, cái mệt mỏi của cảnh chiều nơi núi rừng.
Nguyễn Du đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Chân lý ấy khá ứng với hai câu thơ đầu tiên. Nhưng ở hai câu thơ này, ta phải nhấn mạnh rằng do cảnh buồn nên người cũng muốn buồn theo. Tuy vậy, ở hai câu thơ sau thì niềm vui đã quay trở lại. Sự hy vọng, niềm tin thông qua hình ảnh gọi lửa hồng đã khiến cho bài thơ trở nên vui tươi và dạo dực hơn hẳn…
Mới biết mọi niềm vui, nỗi buồn của Bác hồ đều gắn bó với niềm vui, nỗi buồn của đất nước. Quyền hành nỗi bất hạnh của riêng mình, của tù ngục, khổ đau, Bác vẫn đau đầu lo cho nước nhà…
Bài làm 4
Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh – Bác luôn luôn quan niệm rằng “Văn chương phải là thứ vũ khí chiến đấu trên mặt trận văn hóa văn nghệ”. Bác luôn trăn trở rằng viết cho ai , viết cái gì, viết như thế nào, viết để làm gì.
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Nói đến sự nghiệp sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta biết đến ngoài việc là Bác là Bác Hồ kính yêu của chúng ta, là chủ tịch vĩ đại của đất nước Việt Nam. Khi nói đến tên Người – Hồ Chí Minh có một sự nghiêp sáng tác vô cùng đồ sộ và Bác có rất nhiều tác phẩm phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho kháng chiến. Nói đến văn chính luận, ta biết đến những tác phẩm đặc sắc như: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Di chúc của Bác” “Tuyên ngôn độc lập”…những tác phẩm này được ra đời trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc. Nói đến “Truyện và kí” , ta biết rằng những bài báo được đăng lên trên những tờ báo của Pháp, đó là việc Bác sử dụng rất nhiều những tác phẩm viết theo cách châm biếm, đả kính, phê phán, lên án…Bác viết những bài này để vạch trần những bộ mặt quỷ dữ và khát máu của Pháp trước toàn thể cộng đồng quốc tế. Với những tác phẩm như là “Những trò lố như là Va-ren và Phan Bội Châu”, “Vi hành” ,…Khi nói đến thơ ca của Hồ Chí Minh, gồm hai mảng chính: Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Tiêu biểu là bài thơ “Chiều tối” viết về cảnh chuyển lao , khi Bác bị áp tải đi bộ trong một buổi chiều.
Trong bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt thì kết cấu của nó bao giờ cũng là “Khai – thừa – chuyển – hợp” . Đọc tác phẩm ta thấy có sự kết hợp nhuần nhị, đó là vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ phương Đông và ở đó là chất thép cao thường của một người tù cộng sản. Đó là sức chiến đấu trong thơ ca của Bác.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”
Ở câu thơ thứ nhất, sức mạnh của văn chương dồn đổ lên từ “quyện” thể hiện sự mệt mỏi, sống như những nhà thơ phương Đông Bác Hồ cũng sử dụng hình ảnh “cánh chim” để gọi về buổi chiều . Thế nhưng sự khác biệt ở đây đó là từ “quyện” nó thể hiện sự mệt mỏi.
“Là một trái tim yêu từ ngọn cỏ nhành hoa
Chỉ biết quên mình cho tất cả
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Ở đây Bác nhìn thấu vào trong từng sự vật hiện tượng, đó là sự mệt mỏi sau một ngày dài lam lũ kiếm sống. Cánh chim của chủ tịch Hồ Chí Minh rất khác trong thơ ca phương Đông. Trong thơ ca phương Đông luôn luôn là hình ảnh bầy chim bay về nơi vô định để gợi tả cảnh buổi chiều. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” . Cánh chim trong tác phẩm lại không bay về chỉ để đơn thuần gợi tả cảnh chiều mà lại bay về rừng đang “quy lâm” để “tầm túc thụ”, đang bay về rừng để tìm chốn ngủ. Đó cũng là khát vọng được đoàn viên của Bác. Bác chạnh lòng nhớ nhà trong một ngày dài bị áp tải ở nơi đất khách quê người. Đó là vẻ đẹp của câu thơ thứ nhất, vừa cổ điển lại rất hiện đại.
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Ở đây , “cô vân” là chỉ sự cô đơn , cô quạnh trong một ngày dài buổi chiều bị áp tải. Từ nhà lao này sang nhà lao khác, năm ba cây số một ngày. “Mạn mạn” có nghĩa là chậm chậm nó mang hai dấu nặng đi liền keeff, không chỉ đơn thuần là miêu tả chòm mây bay mà ở đây nó thể hiện bước đi nặng trịch của người cộng sản. Cổ đeo gong, chân tay vướng xiềng xích trong một ngày dài bị áp tài. Vì vậy mà ở đây tác giả viết “Cô vân mạn mạn độ thiên không” một chòm mây trôi châm chậm giữa một bầu trời cao rộng.
Khi ta đọc bài thơ này, ta sẽ thấy một nghịch lý, nghĩa là Bác luôn luôn phê phán thơ xưa:
“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”
Bác thường lên án , phê phán thơ xưa vì thơ xưa “thiên nhiên” bao giờ cũng là chủ thể còn con người thì nhỏ bé côi cút
“Lang thang trên núi tiều vài chú