Trang chủ » Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bài làm 1

Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là hiện tượng thơ kì lạ nhất, “một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với bất kì ai”. Viết thơ để trải niềm đau trên mảnh giấy mỏng manh, đi đến tận cùng đau thương, thơ Hàn Mặc Tử thực sự là “huyết lệ” của một linh hồn trước giờ hấp hối sắp chia phôi. Tuy nhiêm, bên cạnh những vần thơ huyết lệ, Hàn Mặc Tử vẫn có những tiếng thơ tinh khôi như ánh ban mai, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Rút ra từ tập “Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử nhưng vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời. Nếu khổ thơ đầu tiên diễn tả vườn Vĩ Dạ buổi ban mai, khổ thứ hai là đêm trăng xứ Huế cùng với những mặc cảm, chia lìa, xa cách thì khổ thơ thứ ba lại nói về hình bóng khách đường xa va nỗi niềm mơ tưởng của thi sĩ:

                                         Mơ khách đường xa, khách đường xa

                                         Áo em trắng quá nhìn không ra

                                         Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

                                         Ai biết tình ai có đậm đà?

          Bị cuộc đời tuyệt giao, nhưng Hàn Mặc Tử không bao giờ chịu tuyệt tình. Càng chia lìa, càng bị cuộc đời bỏ rơi, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Thật xót xa trong giấc mơ, người thương đã thành khách đường xa. Lời gọi “khách đường xa, khách đường xa” chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách. Nỗi cách chở chia li như nhân lên trùn trùng qua nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người lính vừa chợt hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút. Người tình xưa như đang chạy trốn ta vậy. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng.

       Trong giấc mơ của thi sĩ, bóng hình em hiện lên thật ám ảnh: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Áo em lẫn vào sương khói nên không nhìn thấy, không rõ? Có lẽ không phải vậy. Câu thơ chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vẻ đẹp trinh bạch của người chị trong trang văn “Chơi giữa mùa trăng” cũng được thi sĩ gợi tả bằng áo trắng: “Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát và tinh khôi như pho tượng đức bà Maria. Sao đêm nay chị tôi đẹp thế này. Mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Phải chăng đó là niềm đắm say tột bậc trước vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên, thanh tiết đến tuyệt vời của người mình yêu dấu. Cùn với vườn ngọc, trăng huyền ảo, hính bóng trinh nguyên của người khách đường xa đã hợp thành thế giới ngoài kia, lộng lẫy, quyến rũ. Nhưng cũng giống như những hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông, sông nước xứ Huế đêm trăng đi liền với niềm đắm say tột bậc là nỗi đau thương đến xót xa. Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.

      Mơ tưởng về người thôn Vĩ, thi sĩ không sao thoát khỏi nỗi đau thương, hình ảnh người tình xa càng lộng lẫy thì khoảng cách càng đẩy xa vời vợi. Cuối cùng, thi sĩ đành ngậm ngùi mà trở về với thực tại: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” là không gian nào, Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo, là lãnh cung chia lìa mà ngày đêm thi sĩ đang một mình chống chọi ác quái. Ở đây sương khói mịt mù, vùi lấp cả bóng người. Sương khói nào mà lại có sức phủ ghê gớm đến vậy. Đó chỉ có thể là sương khói của thời gian xa cách đằng đẵng, của không gian xa cách nghìn trùng, của mối tình đơn phương vô vọng, của mặc cảm chia lìa. Những lớp sương khói mịt mù, trùng trùng ấy đã phủ kín hình ảnh, bóng ảnh. Thành thử, thi sĩ ơ nơi này mà như không còn tồn tại nữa. Trong câu thơ như có tiếng người khổ đau của kiếp người lãng quên:

                                              Tôi đang ở đây hay ở đâu

                                              Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

       Mọi thứ trên cõi đời này đều quay lưng với Hàn Mặc Tử. Chỉ có chút tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc thi sĩ với cuộc đời. Thế mà cái tình kia cũng mong manh, xa với lắm: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng linh hoạt biến hóa đem đến cho câu thơ những hàm nghĩa phong phú, thú vị. Có thể hiểu thơ là “Em có biết tình anh vẫn đậm đà”. Hiểu thư thế, câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho người em Vĩ Dạ. Ẩn sau lời bày tỏ tha thiết ấy là chút giận hớn trách móc. Sao em vô tâm không thấu hiểu lòng anh. Lại có thể hiểu ý thơ theo hướng khác: “Anh nào có biết tình em có đậm đà hay không?”. Theo hướng này, câu thơ đưa ra như một lời hỏi đầy hoài nghi, một tiếng thở dài ngậm ngùi chua xót. Và nói có thể chính là câu trả lời cho câu hỏi buôn ra từ đầu bài thơ:

                                  (lời hỏi) Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

                                (lời đáp) Ai biết tình ai có đậm đà?

Ao ước khát khao đến cháy long được trở về Ví Dạ nhưng anh không thể về Vĩ Dạ vì anh nào có biết tình em có đậm đà. Những lời hỏi áy cứ xoáy xâu vào lòng người đọc một nỗi buồn xót xa. Tình yêu mãnh liệt mà vô vọng đau đớn khi hướng về cuộc đời trần thế đã được thể hiện một cách cảm động trong những câu thơ cuối.

        Khép lại “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta mới thấu được tình cảnh của thi sĩ. Không chỉ xúc động lòng người bởi tính khắc khoải, xót xa, “Đây thôn Vĩ Dạ” còn mê hoặc người đọc bởi vẻ đẹp của thơ. Ngôn từ trong sáng, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế. Cảnh sắc thiên nhiên liên tục, không tuân theo tính thống nhất về không gian và thời gian nhưng vẫn gây ấn tượng cho người đọc. Tất cả tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm cũng nhưng làm bật lên ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử. Quả không sai, khi có ai đó tưng nói:

                                     Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu
Người – Thi sĩ – cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.

Bài làm 2

Hồn thơ của Hàn Mặc Tử tạo nên dấu ấn sâu sắc trong phong trào Thơ mới bởi phong cách riêng độc đáo. Thơ của ông mang đến tiếng nói của một tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng thể hiện nổi bật tình yêu của tác giả đối với cuộc đời, nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng. Và khổ thơ thứ 3 của bài, cũng là khổ cuối, thể hiện một nỗi niềm khắc khoải hiện rõ, nhà thơ đang ở trong cõi đau thương của riêng mình.

Hai khổ thơ đầu bài thơ, tác giả đã nêu lên được vẻ đẹp thiên nhiên thôn Vĩ. Đến khổ thơ thứ 3, tác giả nêu lên những hoài niệm về con người thôn Vĩ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tìn ai có đậm đà”

Một giấc mơ được tạo nên, giấc mơ ấy là niềm mong ước đến tận cùng một hình bóng đẹp của em, của khách đường xa. Em lã của cõi đời những giờ đã trở nên xa xôi quá, từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần cùng nhấn mạnh sự xa xôi ấy. “Áo trắng” được nêu ra khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh những chiếc áo dài, đặc trưng của xứ Huế. Tác giả sử dụng màu trắng làm cho hình ảnh mờ nhòa. Từ “quá” là từ chỉ mức độ, làm cho hình ảnh từ thực đi vào cõi ảo. Cảnh vừa gần vừa xa, vừa thực vừa ảo là vì người thôn Vĩ đã từng quen biết và gắn bó, xa lạ vì khoảng cách giữa không gian, thời gian và tình cảm xa vời. Câu “áo em trắng quá nhìn không ra”, mới đọc ta cảm giác có vẻ khó hiểu, trắng quá là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em, ba chữ “nhìn không ra” là một cách nói đầy ấn tượng để thực tả sắc trắng ấy, màu trắng đã trở thành ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhịp thơ 4/3 như đẩy người khách càng xa, “mờ” là không thật, “khách” chỉ khoảng cách, “đường xa” gợi sự cách trở, xa vời. Nhân vật khách được đẩy đi cực xa, mờ nhòa đi trong tâm trí của thi sĩ.

Tâm trạng nhà thơ được thể hiện nổi bật. “Ở đây” được nêu ra mang hai ý nghĩa. Đó có thể là chỉ thôn Vĩ, cũng có thể chỉ là nơi nhà thơ đang trị bệnh. Địa danh được nêu ra không rõ ràng, đối tượng miêu tả cũng không rõ. Từ phiếm chỉ “Ai” cũng có thể là nhân vật anh, cũng có thể là nhân vật em, “sương khói” ám chỉ sự vật không rõ. Câu cuối bài thơ mang câu hỏi với đại từ “ai” thật xa vời đã khép lại bài thơ một nỗi ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh, xa vời giữa sương khói của vùng đau thương tuyệt vọng. Câu thơ nhuốm màu hoài nghi: hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ai đó. Chữ “ai” thứ nhất có thể hiểu theo nghĩa hẹp là khách đường xa, cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là tình người trong cõi trần gian này. Sắc thái tâm lý ở đây không tin vào sự đậm đà của ai đó, mà không dám tin thì đúng hơn. Không tin nghiêng về sự lạnh lùng, hoàn toàn không mong đợi gì là thái độ chán đời, còn không dám tin là vẫn bao hàm một hy vọng sâu kín chỉ không biết mình có thể tin và có quyền được tin như thế hay không. Đây là sự hoài nghi của con người yêu đời, yêu cuộc sống, đó cũng chính là uẩn khúc của một người có tấm lòng thiết tha với cuộc đời. Sự hoài nghi của thi sĩ hướng đến tình cảm rất nhân văn: hướng tới sự thủy chung, mong muốn tình yêu trọn vẹn, mong muốn hạnh phúc.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã sử dụng bút pháp lãng mạn, tác giả đã khắc họa được các hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ thơ cực tả nhưng luôn trong sáng. Độc giả nhận ra được niềm trân trọng, cảm thông với khát vọng và nỗi đau của tác giả. Đó là một con người có tâm hồn và tài năng, nhưng lại phải gánh chịu một số phận bất hạnh đầy bi thương, một nỗi u hoài tích cực và thiết tha với cuộc sống.

Bài làm 3

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại nhiều bài thơ đặc sắc nhất là những bài thơ viết về thiên nhiên, đất nước, con người. Thơ ông thể hiện một tình yêu tha thiết đến đau đớn hướng về cuộc sống nơi trần thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác vào năm 1938, in lần đầu trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là lòng mến yêu của tác giả trước một xứ sở đẹp đẽ nên thơ, với những hình ảnh đẹp của cảnh và người xứ Huế. Khổ thơ thứ hai là cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, buồn thương tuyệt vọng của tác giả:Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu, hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?Là một nhà thơ có tài năng thiên bẩm, Hàn Mặc Tử làm thơ từ khi còn rất trẻ. Thế nhưng,ông phải sống một cuộc đời bi thương, cách li với thế giới bên ngoài vì căn bệnh phong. Khi viếtbài thơ này Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn bệnh nặng, cả thể xác lẫn tinh thần bị đau đớn và bệnh tật giằng xé. Nhưng thể hiện qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta chỉ thấy một chất thơ nhẹ nhàng, một hồn thơ khao khát yêu thương, bệnh tật dường như không thể chạm đến tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Lấy cảm hứng từ tấm bưu thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc – một mối tình dang dở của nhà thơ, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê Việt Nam, qua đó gửi gắm tiếng lòng tha thiết yêu đời, yêu người của tác giả. Khổ thơ đầu là s` bừng sáng của hoài niệm vềkhu vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì ở khổ thơ thứ hai nhà thơ mở rộng bức tranh thiên nhiên ra một không gian mênh mông, rộng lớn:Gió theo lối gió, mây đường mâyKhông gian mênh mông thoáng đãng của miền sông nước xứ Huế hiện ra trước tiên với hình ảnh gió, mây chia lìa ngang trái. Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Cách ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối và hai chữ “gió”, “mây” được điệp 2 lần đã biến không gian nơi đây trở thành một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Bởi thi nhân đã sống trong cảnh ngộ chia li xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi đường đôi ngả như tình và lòng người bấy nay. Hướng tâm trí về một hình ảnh không thể tách rời thôn Vĩ Dạ, nhà thơ miêu tả dòng sôngHương với hai nét tiêu biểu của xứ Huế đó là êm đềm và thơ mộng, đồng thời ẩn sâu trong đó là biết bao niềm cảm xúc, nỗi suy tư của nhà thơ: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp layKhông một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy, cảnh vật mang theo bao nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ. Dòng sông Hương lững lờ trôi êm đềm, trong tâm tưởng của nhà thơtrở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Từ “buồn thiu” mang một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thâm sâu mãi vào hồn người. Bên cạnh dòng nước là hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ng` nơi thôn

Vĩ được diễn tả thật tinh tế. Ngoại cảnh chia lìa, buồn lặng lẽ cũng chính là nỗi lòng tâm tình củathi nhân – nỗi buồn xa vắng, cô đơn, khao khát tìm s` giao hòa. Hai câu thơ tiếp gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng của đêm trăng trên sông Hương ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?Trong nỗi đau đớn và tuyệt vọng, nhà thơ cất lời gọi ai đó đem con thuyền chở trăng về với mình. Với hình ảnh “sông trăng” độc đáo, dòng sông Hương trong đêm trăng hiện lên với vẻđẹp hiền dịu, êm ả, thơ mộng. Đây là cảnh th`c mà như ảo, vì dòng sông không còn là dòng sôngcủa sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, tuôn chảy khắp vũ trụ baola làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơinào đó trong mơ. Dường như con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong s` hồi tưởng quá khứ ấy lạigắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi vì nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải một tối nào khác. Phải “về kịp tối nay” vì đã xa cách và mong đợi saunhiều năm tháng. Con thuyền của ước vọng nay đã trở thành con thuyền của nỗi vô vọng, chứa ánh trăng mang đầy những nỗi buồn. Thế nhưng nhà thơ vẫn mong muốn chuyến thuyền ấy về “kịp” để có người bạn thân thiết là vầng trăng xoa dịu nỗi đau, nỗi cô đơn, bởi điều nhà thơ muốn thổ lộ chỉ có trăng mới có thể thấu hiểu và cảm thông. Câu hỏi của nhà thơ lại rơi vào hư vô vì không có âm vọng hồi đáp. Nhà thơ đã khao khát bám lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để tâm hồn đau thương được an ủi phần nào trong khoảng thời gian còn được sống, được tồn tại, thế nhưng nỗi đau lại tăng lên gấp bội

Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi, sông trăng. Cảnh sắc sông nước nơi thôn Vĩ đã hiện ra với những hình ảnh hết sức quen thuộc vẽ nên một bức tranh phong cảnh thơ mộng, trữ tình mà huyền ảo. Những hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ và tình yêu tha thiết của thi sĩ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Với nhà thơ, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh xưa người cũ. Cảnh đẹp mà được bao bọc bởi ánh trăng mơ màng, da diết, chứa đầy nỗi khắc khoải, nỗi buồn bì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.Bằng bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng, ngôn ngữ điêu luyện, đẹp đẽ, gợi cảm, những hình ảnh thơ hiền hòa, khổ thơ thứ hai của bài Đây thôn Vĩ Dạ cùng với khổ đầu và khổ cuối đã dệt nên bức tranh thơ về một xứ Huế thơ mộng và thân thương. Ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên đó là nỗi lòng của nhà thơ với những tâm s` sâu lắng, khát khao được sống, được gắn bó thiết tha với cuộc đời và con người bằng một tình yêu trần thế. Có lẽ phải vô cùng yêu thiên nhiên, yêu con người, gắn bó sâu sắc với xứ Huế nhà thơ mới viết được những câu thơ đẹp và có hồn đến như thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là một bài thơ tình tuyệt tác để lại trong tâmhồn người đọc những ấn tượng da diết, khó phai mờ.

 

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top