Trang chủ » Phân tích bài ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanh lớp 7 hay nhất

Phân tích bài ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanh lớp 7 hay nhất

Bài làm 1
 
Trong kho tàng ca dao, nơi thể hiện phong phú đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam, dân gian đã dành nhiều lời ca ca ngợi non sông gấm vóc tươi đẹp. Chỉ riêng qua những bài ca dao trong chương trình Ngữ văn 7, tập một ta đã hiểu điều đó.
 
Phải yêu mến, say mê vẻ đẹp của quê hương đến nhường nào dân gian mới họa nên thơ nên nhạc phong cảnh của từng góc hồ, tưởng tượng về dáng vẻ của từng ngọn núi hay đơn giản chỉ là ví von hình ảnh của những con đường. Mỗi lời ca dao là một lời ngợi ca vẻ đẹp trong sáng, nên thơ cua quê hương đất nước.
"Gió dưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ".
 
Chỉ vài nét phác qua nhưng hình ảnh của một cành trúc la đà, một mặt hồ lãng đãng sương phủ, âm thanh của tiếng gà sáng, của tiếng chuông chùa đã gợi được không khí yên bình, êm ả của buổi sớm mai Hà Nội. Phải yêu mảnh đất ấy đến nhường nào, gắn bó với từng sự vật nhỏ bé nhất nơi dây, người viết mới phát hiện ra những vẻ đẹp tinh tế ấy.
 
Sống gắn bó với quê hương đất nước chính là cơ sở để dân gian tạc rõ hình hài của từng dòng sông, từng ngọn núi vào trong tâm thức. Đặc điểm riêng của từng địa danh được đưa vào những lời hát rất thú vị:
 
“Sông nào bên đục bên trong
 Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?”
" Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh ".
 
Từ trên cao nhìn xuống, hình dáng quê hương đẹp đẽ nên họa nên thơ biết bao:
 
"Đường vô xứ Huế quanh quanh
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ".
 
Cảnh trí xứ Huế được phác hoạ qua vẻ đẹp của con đường. Đó là con đường được gợi nên bằng những màu sắc rất nên thơ, tươi tắn: non xanh, nước biếc. Cảnh ấy đẹp như trong tranh vẽ: “tranh hoạ đồ” – trong cái nhìn thẩm mĩ của người Việt xưa, cái đẹp thường được ví với tranh (đẹp như tranh). Bức tranh xứ Huế như thế vừa khoáng đạt, lại vừa gần gũi quây quần. Biện pháp so sánh vẫn là biện pháp tu từ chủ đạo tạo nên vẻ đẹp trong những câu ca dao này.
 
Nhưng mỗi tấc đất, mỗi ngọn cây trên mảnh đất này đều có được từ bàn tay dựng xây, vun đắp của con người:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
 
Kiếm Hồ tức Hồ Hoàn Kiếm (hay còn gọi là Hồ gươm), một thắng cảnh thiên nhiên đồng thời cũng là một di tích lịch sử, văn hoá, gắn với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nơi Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần từng giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh hung bạo ngày nào. Câu Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ thực ra là một câu dẫn, hướng người đọc, người nghe đến thăm hồ Gươm với những tên gọi nổi tiếng (cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút), góp phần tạo nên vẻ đẹp hài hoà, đa dạng vừa thư mộng vừa thiêng liêng. Thủ pháp ở đây là gợi chứ không tả, hay nói cách khác là tả bằng cách gợi. Chỉ dùng phương pháp liệt kê, tác giả dân gian đã gợi lên một cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp ngay giữa Thủ đô Hà Nội. Những địa danh và cảnh trí đó gợi lên tình yêu, niềm tự hào về cảnh đẹp, về truyền thống lịch sử, văn hoá của đất nước, quê hương. Vì vậy, bài thơ kết lại bằng một câu thơ đầy ý nghĩa:
 
"Hỡi ai gây dựng nên non nước này?"
 
Đó là một câu hỏi tu từ, có ý nghĩa khẳng định, nhắc nhở về công lao xây dựng non nước của ông cha ta. Hồ Gươm không chỉ là một cảnh đẹp của Thủ đô, nó đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp, cho truyền thống văn hoá, lịch sử của cả đất nước. Đó cũng là lời nhắc nhở các thế hệ mai sau phải biết trân trọng, gìn giữ, xây dựng và tiếp nối truyền thống đó.
 
Tình yêu quê hương đất nước được dân gian thể hiện qua ca dao là tình cảm có chiều sâu và giàu tính nhân văn. Không chi ngợi ca vẻ đẹp thuần túy của tự nhiên, ca dao còn nhắc đến công lao của những con người đã cống hiến, hi sinh cho mảnh đất ấy, qua đó gợi niềm tự hào đồng thời nhắc nhở ý thức bảo vệ và giữ gìn non sông của mỗi chúng ta.
 
Bài làm 2
 
Trong kho tàng thơ ca dân tộc có vô vàn những bài thơ, bài ca dao, câu ca, tục ngữ nói về tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa, ca ngợi về đất nước, về con người quê hương. Trong đó những câu hát về tình yêu, đất nước, con người được người đọc, người nghe đón nhận hơn cả. Những câu hát đó chính là bức tranh tình yêu về quê hương, đất nước, nơi chôn rau cắt rốn của mỗi chính mỗi con người Việt Nam, với tình cảm đong đầy và niềm tự hào dân tộc sâu sắc.
 
Ở đâu năm cửa nàng ơi
 
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
 
Sông nào bên đục, bên trong
 
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
 
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh
 
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây?
 
Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi
 
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
 
Nước sông Thương bên đục bên trong
 
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh
 
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
 
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
 
Bài ca dao là sự đối đáp thử tài của đôi trai gái được vẽ lên như một bức tranh phác họa nên bản đồ địa lí các địa danh có những điểm nổi bật và văn hóa lịch sử qua sự đối đáp một người hỏi-một người trả lời của chàng trai và cô gái. Các địa điểm với những nét nổi bật về lịch sử cũng như nét riêng được khéo léo đưa vào câu hỏi với những nét gần gũi, thân thuộc như: “ở đâu năm cửa”; “sông chảy sáu khúc”; “sông nào bên đục bên trong”; “núi nào có thánh sinh”; “đền thiêng xứ thanh”; “thành tiên xây”, tất cả đều là những gợi ý cho câu hỏi của chàng trai đối với cô gái.
Tổ quốc ta thật đẹp, non sông gấm vóc với biết bao những địa danh với khung cảnh tráng lệ. Thể hiện qua sự đối đáp của cô gái dành cho chàng trai: các địa danh của cô gái đáp lại cho chàng trai “thành Hà Nội”; “sông Lục Đầu”; “sông Thương”; “Núi Tản”; “đền Sòng”; “tỉnh Lạng”. bài đối đáp như là một cách thức chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước. Có thể nói, bên cạnh tình yêu lứa đôi trai gái thông thường giờ đây đã lan tỏa thành tình yêu đối với đất nước, đối với quê hương, với những con người chung một gốc, chung một cội nguồn. Một tình yêu lớn, vĩ đại, dài lâu.
 
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
 
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
 
Đài Nghiên, tháp Bút chưa mòn,
 
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
 
Tả lại một cảnh đẹp mà em biết
 
Khi mối quan hệ đã trở nên thân thiết hơn, gần gũi hơn, thì người ta mong muốn đi chung một lối, chung một đường, cùng nhau đi ngao du thưởng ngoạn. Bài ca là bức tranh sinh động với sự xuất hiện của loạt các địa danh thưởng ngoạn quen thuộc như “Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, đài Nghiên tháp Bút” đây là những di tích, địa điểm du lịch thân quen, biểu tượng ở Hà Nội. Bút pháp nghệ thuật đã gợi tả nên vẻ đẹp thanh thuần vừa thơ mộng nhưng cũng rất thiêng liêng. Các địa danh được nêu lên không chỉ là sự tự hào về sự cổ kính của các địa điểm của thủ đô, trái tim của cả nước mà hơn hết, đó còn là lời nhắc gửi đến thế hệ sau cần phải biết trân trọng, giữ gìn và tự hào về những truyền thống  tốt đẹp của dân tộc đó.
 
Nếu như bài thơ thứ nhất nói về địa danh của các tỉnh khu vực miền bắc, bài thơ thứ hai là địa danh của thủ đô Hà Nội, thì bài thứ ba ta lại được du ngoạn đến một tỉnh của miền Trung, vô cùng nhẹ nhàng, thân thương đó chính là xứ Huế mộng mơ. Cảnh đẹp xứ Huế được khắc họa qua những sắc của một bức tranh khiến chúng ta liên tưởng như “tranh họa đồ”. “Ai vô xứ Huế” như một lời mời thân thiện mà vô cùng nhẹ nhàng đến tất cả mọi người hãy đến huế được đắm chìm và cảm nhận tất thảy những vẻ đẹp không chỉ là thiên nhiên mà cả con người nơi đây.
 
Đường vô xứ Huế quanh quanh
 
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
 
Ai vô xứ Huế thì vô…
 
Hình ảnh cánh đồng lúa bát ngát xanh tươi chính là hình ảnh quen thuộc không thể thiếu khi nhắc đến trong bức tranh làng quê, hay trong các câu ca dao tục ngữ của nhân dân ta.
 
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
 
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
 
Thân em như chẽn đòng đòng,
 
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
 
Ở bài thứ tư, đã gợi cho người đọc một bứa tranh làng quê với cánh đồng lúa bát ngát, xanh tươi, mở rộng không gian cho người đọc, nó không làm cho người đọc bị choáng ngợp, mà ngược lại nó làm toát lên cái tinh túy của đất trời.
 
Bút pháp nghệ thuật trong các bài ca dao, dân ca thường sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ như so sánh, điệp ngữ, đối xứng, đảo ngữ,… các hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ… làm tăng tính hàm xúc, gợi hình, gợi ý, tăng lên giá trị cả về mặt nội dung cũng như về nghệ thuật.
 
Những câu hát về tình yêu, đất nước, con người mang ý nghĩa gợi nhiều hơn tả. Với nội dung chính, xuyên suốt khắp bài chính là bức tranh phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tình yêu chân chất tinh tế và lòng tự hào đối với con người, đối với quê hương, đất nước
 
Bài làm 3
 
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô…
 
Gảnh thiên nhiên non xanh, nước biếc trên đường vào xứ Huế đẹp như một bức tranh sơn Thủy hữu tình.
 
Các tính từ quanh quanh, xanh, biếc… và cách so sánh thường thấy trong văn chương đã khẳng định vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh trên con đường thiên lí từ miền Bắc vào miền Trung, đặc biệt là xứ Huế.
 
Ai vô xứ Huế thì vô là lời nhắn nhủ, mời gọi. Đại từ phiếm chỉ Ai thường có nhiều nghĩa. Nó có thể chỉ số ít hoặc số nhiều, có thể chỉ một người mà cũng có thể là mọi người.
 
Câu hát thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào về vẻ đẹp thơ mộng của đất cố đô. Đây cũng là cách giới thiệu mang sắc thái tinh tế, thanh lịch của người dân xứ Huế.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top