Trang chủ » Phân tích bài ca dao Thương thay thân phận con tằm lớp 7 hay nhất

Phân tích bài ca dao Thương thay thân phận con tằm lớp 7 hay nhất

Bài làm 1
 
Ca dao là tiếng lòng của người lao động trong xã hội xưa. Trong tiếng lòng ấy, ta nghe thấy lời tâm tình về tình yêu quê hương đất nước, lời tâm tình của lòng cha mẹ yêu con, lời của người con hiếu thảo, lời tha thiết nồng nàn của đôi lứa và cả những lời than cho kiếp người bị xã hội dập vùi. Một trong những lời than thân ấy là bài ca dao:
 
"Thương thay thân phận con tằm
 
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
 
Thương thay lũ kiến li ti
 
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
 
Thương thay hạc lánh đường mây
 
Chim bay mòi cánh biết ngày nào thôi.
 
Thương thay con cuốc giữa trời
 
Dầu kêu ra máu có người nào nghe".
 
Đúc kết và dồn nén. Lời than đã chắt lọc những gì tiêu biểu nhất để rồi dùng một vài hình ảnh, từ ngữ giàu sức biểu đạt. Tập hợp hình ảnh bốn con vật: tằm, hạc, kiến, cuốc, mỗi con vật một số phận một dáng vẻ riêng là những ẩn dụ về con người, kiếp người trong xã hội cũ với nỗi khổ vì thiếu thốn vật chất và đè nén về tinh thần.
 
Bắt đầu từ thân phận con tằm:
 
"Thương thay thân phận con tằm
 
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ”
 
Sinh ra để làm tơ, nhả tơ, con tằm rút ruột mình để cho người sợi tơ óng. Lúc rút hết ruột mình cũng là lúc con tằm kết thúc đời tằm, chỉ còn xác nhộng vô tri. Làm đẹp cho người, tằm phải tự kết liễu đời mình. Một nắm lá dâu thôi, tằm cho những sợi tơ quý. Và khi lấy được tơ rồi, ngay lập tức, tằm bị rẻ rúng, bị gạt sang bên lề của cuộc sống. Người lao động xưa cũng thế, vắt kiệt sức mình, họ làm giàu cho bọn địa chủ, quan tham để rồi gục chết mà không nhận được chút lòng thương. Vứt xác tằm cũ, một lứa tằm mới lại được nuôi để hiến tơ. Kiếp người cũng thế, hết cha lại con, đời đời kiếp kiếp đem sức mình, còng lưng, sấp mặt làm ra của cải cho chúng chất thành núi còn thân xác ngày một xác xơ đến tận cùng như con tằm bị rút tơ. Mượn hình ảnh con tằm và sự bòn rút tận ruột gan, bài ca dao dồn nén bằng nghệ thuật ẩn dụ đã gợi ra bao nỗi thảm thương của thân phận con người trong xã hội phong kiến khi mà đất nước còn nô lệ. Và hơn hết ta thầm ước một sự đổi đời cho đất nước và mỗi kiếp người.
 
Từ con tằm rút tận cùng thân xác để cho tơ rồi chết trong sự ghẻ lạnh ta đến với con kiến cũng đáng thương không kém con tằm. Bản thân con kiến bé li ti, ai cũng biết và hẳn phần nó ăn cũng tí ti như thế. Vậy nhưng, lúc nào thấy kiến ta cũng gặp sự mải miết, vội vàng, không ngừng nghỉ. Nó kiếm mồi để còn nuôi kiến chúa. Thứ kiến to kềnh chỉ nằm trong hang sẵn chờ kiến thợ mang mồi về ăn. Nằm trong hệ thống hình ảnh ẩn dụ, "lũ kiến bé tí ti" chính là những kiếp người. Họ làm nhiều, rất nhiều đấy nhưng nào hưởng thụ được bao bởi phần lớn của cải họ làm ra phải giành cho "kiến chúa", cho bọn chỉ chuyên "ngồi mát ăn bát vàng" không hiếm ở nông thôn xưa.
 
Cũng đáng thương không kém là hình ảnh chim hạc gày gò. Cánh mỏi rã rời mà vẫn cứ phải bay. Không có điểm dừng, không biết khi nào dừng. Con chim hạc ấy cứ bay vô định, nhẫn nại, cam chịu… Kiếp người cũng thế, phận khổ và nghèo, làm lụng liên miên mà tương lai thì vô định, cố gắng mà vô vọng cả hạc và người của ca dao đem đến cho ta cảm giác ngậm ngùi thương thân hạc gầy, phận người nghèo khổ khốn cùng và ước một điểm dừng cho hạc nghỉ đôi cánh, ước một tia sáng của niềm hi vọng cho những con người đáng thương.
 
Cuối cùng là hình ảnh con cuốc, thân xác rạc gầy, tiếng kêu khắc khoải, tha thiết, quặn đau đến ứa máu mà nào ai thèm nghe. Tiếng kêu ấy theo gió, tan loãng vào không gian, tan loãng vào cõi đời và lòng người hờ hững, vô cảm. Lại một ẩn dụ sâu sắc về con người. Thấp cổ bé họng là cách mà người ta gọi những người nghèo khổ tận cùng trong xã hội, bởi thế, tiếng kêu của họ cũng như tiếng kêu kia của cuốc, ai đoái hoài, ai thương, ai cảm thông ?
 
Khép lại bài ca dao là tiếng kêu khắc khoải của con quốc. Tiếng kêu ấy da diết dội vào lòng ta. Những kiếp người và cuộc đời của tằm, kiến, của hạc, của cuốc trong bài ca dao đã là quá khứ. Cách mạng và sự đổi đời đã đem cho ta cuộc sống mới, nhưng khi đọc những lời than thân ấy của cha ông, ta càng hiểu hơn, càng thương hơn quá khứ đau thương, của dân tộc và trân trọng cuộc sống đủ đầy mà mỗi ngày ta đang được nhận.
 
Bài làm 2
 
“Con tằm”và “lũ kiến” là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay”, thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến!
 
“Thương thay thân phận con tằm,
 
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
 
Thương thay lũ kiến li ti,
 
Kiểm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
 
Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”,kiếp kiến “phải đì tìm mồi”,nhưng “kiếm ăn được mấy”.Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy”cất lên hai lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lấn không ra”.
Hạc, chim, con cuốc,là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây” để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương!
 
“Thương thay hạc lánh đường mây,
 
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”
 
Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay”! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:
 
“Thương thay con cuốc giữa trời,
 
Dầu kêu ra máu cố người nào nghe”
 
Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”, “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.
 
Bài làm 3
 
Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận cuat người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:
 
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
   Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
   Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
   Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
 
Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.
 
Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.
 
Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng coa thêm.
 
Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,… ) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiên cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía.
 
Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn ládâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ lia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.
 
Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chím bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?!
 
Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói đến nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau đớn do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thình không mà nào có ai để ý.
 
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.
 
Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sống nước miền Nam.
 
Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
 
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.
 
Tóm lại, cả bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung thân thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo đói xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ.
 
          Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, mỗi khi đọc những bài ca dao trên, chúng ta lại càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đóinghèo trong rơm rạ của một dĩ vãng đen tối đã lùi xa.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top