Bài làm 1
Nếu lấy tiêu chí của một bài văn nghị luận mà xem xét thì trong nền văn học trung đại Việt Nam có hai áng văn đặc sắc: Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo. So với Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ như một khúc dạo đầu. Và tuy có là như thế thì nó vẫn là một bài văn mẫu mực. Tính nhất quán nếu là đòi hỏi hàng đầu thì trên phương diện này, ít có bài văn nào so sánh được : nhất quán trong vị thế phát ngôn, nhất quán trong kết cấu, bố cục, trình bày, nhất quán trong phong cách vừa hùng biện vừa trữ tình, có tác dụng khai trí, khai tâm mở đường cho hành động, nghĩa là một thái độ cần có của tì tướng và các binh sĩ dưới quyển ở vào thời điểm nước sôi lửa bỏng.
Mặc dù được cử làm tiết chế thống lĩnh, Trần Quốc Tuấn không dựa vào quyển uy, mà lấy việc thu phục nhân tâm làm kế sách, nghĩa là phát huy đến mức độ tối đa tinh thần tự nguyện để những người cầm vũ khí vì lí tưởng, vì đạo lí mà từ bỏ lối sống hưởng lạc thái bình, sẵn sàng giết giặc lập công, tất cả mọi người phải giỏi như Bàng Mông, Hậu Nghệ. Võ mà cần đến văn, có gươm giáo ở trong tay, nhưng trước hết lòng người cần được thức tỉnh. Cách nhìn, cách nghĩ của Trần Quốc Tuấn sâu sắc, xa rộng đến nhường nào ? Tuy vậy, muốn đi tới đích, phát ngôn của người chủ tướng phải dựa vào tài năng. Trí tuệ, tâm hồn và tài năng ấy không kết tinh lại dưới dạng một bài văn nguyên khối mà sức mạnh của nó được phân bố khoa học, tài tình đến từng đoạn, từng câu.
Nếu xét một cách toàn cục thì bài văn có ba luận điểm lớn : trách nhiệm và đạo lí của kẻ làm tướng, trách nhiệm ấy đang bị chểnh mảng, lơ là, chỉ có một hành động duy nhất để sửa sai lúc này là học tập binh thư, sẵn sàng giết giặc. Cả ba luận điểm ấy đều xuất phát từ một sợi dây tinh thần nhất quán: ấy là đạo "thần chủ" mà kẻ làm tướng phải khắc cốt ghi xương.
1. Đạo thần chủ – lẽ sống của con nhà võ tướng:
Đây là chỗ dựa tinh thần của cả bài văn. Chỗ dựa ấy được xác lập đầy tính thuyết phục trong những quan hệ : vua – tôi, chủ soái và tì tướng, lãnh chúa (chủ) với gia tướng, gia nô (thần). Đây là một trong hộ thống ba sợi dây ràng buộc của kỉ cương (tam cương: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ), của hệ ý thức phong kiến có tính chất đặc thù và sức mạnh tuyệt đối, vô song của nó. Cách lập luận của tác giả trong phần này chủ yếu bằng biện pháp nêu gương, những tấm gương "đến nay còn lưu tiếng tốt". Các bước dẫn dụ đều dựa vào sách vở, nghĩa là các chuẩn mực đã được công nhận nhưng từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp. Xa thì từ thời Xuân thu – Chiến quốc, đời Hán, đời Đường – chủ yếu là đạo lí vua – tôi (rộng), còn gần thì đời Tống, đời Nguyên – chủ yếu là đạo lí chủ soái tì tướng (hẹp). Xa và gần đều có ý nghĩa ngang nhau. Những bậc trung thần nghĩa sĩ xa xôi nếu đã được "lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ", thì những tì tướng thời Tống, Nguyên hoặc "khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu" hoặc "khiến cho quân trưởng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt". Cái cách bàn luận cứ thu hẹp dần biên độ này phải chăng đầy dụng ý để khi bước vào luận điểm thứ hai, tác giả bài văn có thể bắt đầu bằng một cụm từ thể hiện quan hệ cụ thể "Huống chi ta cùng các ngươi…" không có gì là đột ngột nữa. Sự thu hẹp vừa nêu, ít nhiều đã bộc lộ một phong cách : thay thế cho sự áp đặt, cứng nhắc là thái độ tinh thần dễ tạo được sự cảm thông giữa hai vai phát ngôn: người nói và người nghe, người có vị thế xã hội cao hơn với đông đảo người dưới quyền. Sự tiến lui trong đường đi nước bước này thật linh hoạt, mềm dẻo, cốt là đạt được đến cái đích cuối cùng – điểu này mới là then chốt: "Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây". Và ngay khi kể chuyện thời xa lắc xa lơ – mà những kẻ "con nhà võ tướng không hiểu văn nghĩa không biết thực hư", tác giả bài vãn vẫn nhấn mạnh một ý cần bàn không bao giờ thuộc về dĩ vãng. Ấy là thái độ sống : "Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa". Sự thức tỉnh phải chăng từ đó đã được nhen lên, từ lương tri, lương năng của người võ tướng. Để sau đó bao nhiêu câu hỏi liên tiếp được đật ra xoáy vào tâm trí khi kể chuyện Tống, Nguyên: "Vương Công Kiên là người thế nào, tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào… Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào, tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào…". Bài văn chính luận do cách nói ấy đã có được đà. Sự sâu sắc của tư tưởng, cái cách khái quát của tư duy, độ dồn nén bên trong của cảm xúc đã tạo nên cái đà ấy.
2. Nay "các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo" là luận điểm thứ hai, trên phương diện đạo lí, nó đối lập với luận điểm thứ nhất, nghĩa là trái với lẽ phải, trái với đạo luân thường của con nhà võ tướng. Ở luận điểm tối quan trọng này, nếu không hiểu thấu đáo (trong cấu trúc tổng thể của bài văn) sẽ có nguy cơ bị phan tán, sa lầy vào các nội dung manh mún, ví dụ, tách bạch các ý tuy là có thật của bài vãn, như sự ngang ngược và tội ác của giặc, lòng yêu nước và cách đối xử ân tình của chủ tướng,… Nên chăng, tất cả các khía cạnh trên đây nên quy về một mối "nhìn chủ nhục mà không biết lo". Người chủ ấy là ai nếu không phải là chính tác giả bài văn ? Người chủ ấy tuy không là vua nhưng đang giúp vua thống lĩnh quân đội, thay trời hành đạo để bảo vệ non sông khi sự còn mất của nước nhà chỉ như ngàn cân treo sợi tóc. Người chủ ấy, với tư cách là bề tôi của vua cũng có đạo thần chủ, có trách nhiệm của riêng mình, nhưng trong giao tiếp đối thoại của bài vãn, chủ yếu nó hướng về mối quan hệ giữa chủ (là Trần Quốc Tuấn) với tướng (các tì tướng).
Nỗi nhục của chủ tướng lúc này là ở chỗ: tuy có trọng trách thay vua giữ nước, nhưng để cho đất nước bị quân giặc chà đạp, ngang ngược lộng hành. Chúng đang xúc phạm đến những điều thiêng liêng nhất mà kẻ còn có lương tri không thể nhắm mắt dửng dưng. Triều đình bị sỉ mắng, tể phụ bị bắt nạt. Mà kẻ có quyền sỉ mắng đó là ai: một bọn cú diều, dê chó ("uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, dem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ"). Sự nghiêm trọng khác thường là ở chỗ: tác giả sử dụng biện pháp đối lập để nêu bật tình hình, mà cũng là một tổn thương tinh thần với người chủ tướng. Đối lập với tể phụ, triều đình, về đại từ nhân xưng, tác giả đã không ngần ngại biến chúng thành những loài dã thú. Thú vật hoá quân thù cũng là một cách bộc lộ lòng căm thù tới đỉnh cao, đến tột cùng của nsười chủ tướng. Chưa hết, sự im lặng về phía hành động của các tướng sĩ còn dẫn đến một nguy cơ "như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau". Điểu đó khiến người chủ tướng không thể bình tâm : ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Cái vật vã đến đớn đau của người chủ tướng là căm tức đến nghẹn ngào "VÌ "chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Con người ta ai chẳng là người ham sống, nhưng tác giả tình nguyện chết đến trăm, nghìn lần, chết trong niềm vui vì giải thoát được niềm căm tức. Phóng đại, cường điệu là cách nói dường như không thật, nhưng giờ đây nó lại là "thật" nhất. Khi nỗi uất hận trong lòng như ngọn lửa bốc lên thì không gì kìm giữ nổi. Chỉ có cách nói ấy mới có khả năng đánh thức một cái gì ở đối tượng người nghe.
– Cái đánh thức thứ hai với đối tượng người nghe không chỉ ở nhận thức lí trí. Nó còn sâu lắng trong quan hộ đối đãi ân tình giữa ông và các tướng sĩ của ông, ấy là sự cảm thông chia sẻ. Vị thế xã hội tuy trên dưới khác nhau nhưng tình lại như cha con, ruột thịt, lúc nào cũng săn sóc vỗ về. Sự chia sẻ ở bài văn là có ý thức hẳn hoi, khi thì : "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc", khi thì: "Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày". Ta và các ngươi đã ở vào cái thế song hành, bè đôi, có chung có thuỷ, có nghĩa có tình. Những câu văn theo lối tứ lục (mỗi vế câu có bốn hoặc sáu chữ) đối nhau tương xứng cả ý, cả lời, cả thanh điệu lại viết liền một mạch như nguồn nước tràn đầy không một lúc cạn vơi diễn tả tấm lòng của người chủ tướng. Cảm động biết dường nào khi tướng sĩ, kẻ được nâng đỡ, cưu mang nghe được những câu văn chân thật, chân thật trong sự cảm thông chia sẻ "lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười", chân thật cả trong sự so sánh đối đãi với người xưa: "so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì. Như thế là ta đã làm tròn bổn phận của ta, còn các ngươi ?".
– Hiểm hoạ hiện thời – hậu quả của thú hưởng lạc ăn chơi của các ngươi dẫn đến là gì, nếu không phải là nước mất nhà tan ? Nước có giặc mà không sẵn sàng đánh giặc, thì nếu có đánh giặc "cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp", "mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh",… tất dẫn đến nguy cơ mà cả ta và các ngươi phải chịu. Nước đã mất, nhà sẽ không còn, ta và các ngươi đều trở thành tù binh của giặc… "Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất". "Chẳng những" và "chẳng những"… bao nhiêu câu văn là bấy nhiêu đau xót ("đau xót biết chừng nào"). Chẳng những kiếp này, còn đến trăm năm sau "tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu". Cách phân tích của tác giả thật sắc sảo, hợp lí, chí tình khi vạch ra hai con đường hoạ, phúc. Hoạ có thể đến nơi mà phúc cũng như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều là chúng khác nhau một vực, một trời. Điều quyết định nằm trong thái độ, trong sự dứt khoát chọn đường : ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi ? "Nhà" và "Nước" tuy là hai yếu tố gắn liền với nhau, nhưng không thể ngang hàng, không thể xếp theo thứ tự hàng ngang, mà phải cái sau cái trước, bởi "nước mất" thì "nhà tan". Đổ giữ được nước – cũng là giữ được nhà, trọng trách của con nhà võ tướng không còn cách nào khác hơn là luyện tập binh đao, cung kiếm "Khiến cho người nsười giỏi như Bàng Mồng, nhà nhà đều là Hậu Nghệ". Phải tiêu diệt kẻ thù ở chính nơi chúng đã gây ra tội ác, nơi tượng trưng cho quốc thể, nơi tôn miếu thờ cúng của quốc gia, phải "bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai", người viết những điều tâm huyết mới được hả lòng. Sự "hả lòng" ấy sung sướng biết bao nhiêu khi hạnh phúc được bảo vệ, ta và các ngươi lại được an hưởng thái bình, "chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ". Lại những câu, những cặp vế song song đôi một giữa ta và các ngươi, giữa nước với nhà giống như một thứ hạnh phúc bay đôi thật là đủ đầy viên mãn. Trọng lượng của bài văn rơi đúng vào đoạn phân tích thiệt hơn, tác động cùng một lúc đến nhận thức, tình cảm, lương tâm đối với con nhà võ tướng. Đó cũng là một cách lập luận điển hình mẫu mực, không thể có một cách nói nào đúng hơn và hay hơn vào thời điểm đó.
3. Nhận thức được phải trái, đúng sai, nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rút cuộc là "chuyên tập sách này" (cuốn Binh thư yếu lược) hay là khinh bỏ nó. Chăm chỉ học hành, luyện tập "mới chỉ là đạo thần chủ" (ngọn cờ tư tưởng của bài văn, thấm vào từng ý, từng lời) còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người quyền uy tối thượng thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Giọng điệu của lời văn vô cùng nghiêm khắc, hết sức rạch ròi, không còn khoan dung, độ lượng nữa. "Vì sao vậy" ? Câu văn hàm chứa hai lượng thông tin, nó cảnh báo một tình hình : nước có thể vẫn giữ dược (vì giữ nước là sự nghiệp của toàn dân) nhưng khi "giặc giã dẹp yên" thì "chỗ đứng của các ngươi không còn. Nước vẫn còn, nhưng hạnh phúc của các ngươi không thể nào có nữa, không chỉ bây giờ mà còn "muôn đời để thẹn", với con cháu các ngươi thì còn gì là tông tổ, gia thanh, còn tiếng thơm đâu mà lưu truyền mãi mãi". Sự tuyệt tự về tinh thần này mới thật là đáng sợ vì nó là một thứ bia miệng ngàn năm ("Trăm năm bia đá thì mòn – Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ"). Đoạn văn cảnh báo, cảnh tỉnh đúng như một thứ quân lệnh (quân lệnh như sơn) không thể có cách hiểu khác, cũng không thể nào làm khác. Ở đoạn kết của bài văn này, một lần nữa đạo thần chủ lại rành rọt cất lên như lẽ sống của con nhà võ tướng: "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục…" nghĩa là không lo báo thù cho chủ, không hành động thì chẳng khác nào "quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc". Thái độ dứt khoát này có tác dụng tập hợp lực lượng, trước hết về mặt tư tướng tinh thần để tướng sĩ trong quân nghìn người như một ("Ba quân hùng khí át sao Ngưu" – Phạm Ngũ Lão). Thế áp đảo của ta đối với bọn giặc thù phải bất đầu từ đó. Binh thư yếu lược dạy cách đánh cụ thể (khi đối mặt với quân thù), nhưng muốn "mưu phạt" phải "tâm công" như sách lược của Nguyễn Trãi sau này mà Trần Quốc Tuấn tuy không nói ra nhưng ông đã làm như vậy.
Bài làm 2
Nếu lấy tiêu chí của một bài văn nghị luận mà xem xét thì trong nền văn học trung đại Việt Nam có hai áng văn đặc sắc: Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo. So với Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ như một khúc dạo đầu. Và tuy có là như thế thì nó vẫn là một bài văn mẫu mực. Tính nhất quán nếu là đòi hỏi hàng đầu thì trên phương diện này, ít có bài văn nào so sánh được: nhất quán trong vị thế phát ngôn, nhất quán trong kết cấu, bố cục, trình bày, nhất quán trong phong cách vừa hùng biện vừa trữ tình, có tác dụng khai trí, khai tâm mở đường cho hành động, nghĩa là một thái độ cần có của tì tướng và các binh sĩ dưới quyển ở vào thời điểm nước sôi lửa bỏng.
Mặc dù được cử làm tiết chế thống lĩnh, Trần Quốc Tuấn không dựa vào quyển uy, mà lấy việc thu phục nhân tâm làm kế sách, nghĩa là phát huy đến mức độ tối đa tinh thần tự nguyện để những người cầm vũ khí vì lí tưởng, vì đạo lí mà từ bỏ lối sống hưởng lạc thái bình, sẵn sàng giết giặc lập công, tất cả mọi người phải giỏi như Bàng Mông, Hậu Nghệ. Võ mà cần đến văn, có gươm giáo ở trong tay, nhưng trước hết lòng người cần được thức tỉnh. Cách nhìn, cách nghĩ của Trần Quốc Tuấn sâu sắc, xa rộng đến nhường nào? Tuy vậy, muốn đi tới đích, phát ngôn của người chủ tướng phải dựa vào tài năng. Trí tuệ, tâm hồn và tài năng ấy không kết tinh lại dưới dạng một bài văn nguyên khối mà sức mạnh của nó được phân bố khoa học, tài tình đến từng đoạn, từng câu.
Nếu xét một cách toàn cục thì bài văn có ba luận điểm lớn: trách nhiệm và đạo lí của kẻ làm tướng, trách nhiệm ấy đang bị chểnh mảng, lơ là, chỉ có một hành động duy nhất để sửa sai lúc này là học tập binh thư, sẵn sàng giết giặc. Cả ba luận điểm ấy đều xuất phát từ một sợi dây tinh thần nhất quán: ấy là đạo "thần chủ" mà kẻ làm tướng phải khắc cốt ghi xương.
1.Đạo thần chủ – lẽ sống của con nhà võ tướng:
Đây là chỗ dựa tinh thần của cả bài văn. Chỗ dựa ấy được xác lập đầy tính thuyết phục trong những quan hệ: vua – tôi, chủ soái và tì tướng, lãnh chúa (chủ) với gia tướng, gia nô (thần). Đây là một trong hộ thống ba sợi dây ràng buộc của kỉ cương (tam cương: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ), của hệ ý thức phong kiến có tính chất đặc thù và sức mạnh tuyệt đối, vô song của nó. Cách lập luận của tác giả trong phần này chủ yếu bằng biện pháp nêu gương, những tấm gương "đến nay còn lưu tiếng tốt". Các bước dẫn dụ đều dựa vào sách vở, nghĩa là các chuẩn mực đã được công nhận nhưng từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp. Xa thì từ thời Xuân thu – Chiến quốc, đời Hán, đời Đường – chủ yếu là đạo lí vua – tôi (rộng), còn gần thì đời Tống, đời Nguyên – chủ yếu là đạo lí chủ soái tì tướng (hẹp). Xa và gần đều có ý nghĩa ngang nhau. Những bậc trung thần nghĩa sĩ xa xôi nếu đã được "lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ", thì những tì tướng thời Tống, Nguyên hoặc "khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu" hoặc "khiến cho quân trưởng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt". Cái cách bàn luận cứ thu hẹp dần biên độ này phải chăng đầy dụng ý để khi bước vào luận điểm thứ hai, tác giả bài văn có thể bắt đầu bằng một cụm từ thể hiện quan hệ cụ thể "Huống chi ta cùng các ngươi…" không có gì là đột ngột nữa. Sự thu hẹp vừa nêu, ít nhiều đã bộc lộ một phong cách: thay thế cho sự áp đặt, cứng nhắc là thái độ tinh thần dễ tạo được sự cảm thông giữa hai vai phát ngôn: người nói và người nghe, người có vị thế xã hội cao hơn với đông đảo người dưới quyền. Sự tiến lui trong đường đi nước bước này thật linh hoạt, mềm dẻo, cốt là đạt được đến cái đích cuối cùng – điểu này mới là then chốt: "Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây". Và ngay khi kể chuyện thời xa lắc xa lơ – mà những kẻ "con nhà võ tướng không hiểu văn nghĩa không biết thực hư", tác giả bài vãn vẫn nhấn mạnh một ý cần bàn không bao giờ thuộc về dĩ vãng. Ấy là thái độ sống: "Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa". Sự thức tỉnh phải chăng từ đó đã được nhen lên, từ lương tri, lương năng của người võ tướng. Để sau đó bao nhiêu câu hỏi liên tiếp được đật ra xoáy vào tâm trí khi kể chuyện Tống, Nguyên: "Vương Công Kiên là người thế nào, tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào… Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào, tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào…". Bài văn chính luận do cách nói ấy đã có được đà. Sự sâu sắc của tư tưởng, cái cách khái quát của tư duy, độ dồn nén bên trong của cảm xúc đã tạo nên cái đà ấy.
2. Nay "các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo" là luận điểm thứ hai, trên phương diện đạo lí, nó đối lập với luận điểm thứ nhất, nghĩa là trái với lẽ phải, trái với đạo luân thường của con nhà võ tướng. Ở luận điểm tối quan trọng này, nếu không hiểu thấu đáo (trong cấu trúc tổng thể của bài văn) sẽ có nguy cơ bị phan tán, sa lầy vào các nội dung manh mún, ví dụ, tách bạch các ý tuy là có thật của bài vãn, như sự ngang ngược và tội ác của giặc, lòng yêu nước và cách đối xử ân tình của chủ tướng,… Nên chăng, tất cả các khía cạnh trên đây nên quy về một mối "nhìn chủ nhục mà không biết lo". Người chủ ấy là ai nếu không phải là chính tác giả bài văn? Người chủ ấy tuy không là vua nhưng đang giúp vua thống lĩnh quân đội, thay trời hành đạo để bảo vệ non sông khi sự còn mất của nước nhà chỉ như ngàn cân treo sợi tóc. Người chủ ấy, với tư cách là bề tôi của vua cũng có đạo thần chủ, có trách nhiệm của riêng mình, nhưng trong giao tiếp đối thoại của bài vãn, chủ yếu nó hướng về mối quan hệ giữa chủ (là Trần Quốc Tuấn) với tướng (các tì tướng).
Nỗi nhục của chủ tướng lúc này là ở chỗ: tuy có trọng trách thay vua giữ nước, nhưng để cho đất nước bị quân giặc chà đạp, ngang ngược lộng hành. Chúng đang xúc phạm đến những điều thiêng liêng nhất mà kẻ còn có lương tri không thể nhắm mắt dửng dưng. Triều đình bị sỉ mắng, tể phụ bị bắt nạt. Mà kẻ có quyền sỉ mắng đó là ai: một bọn cú diều, dê chó ("uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, dem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ"). Sự nghiêm trọng khác thường là ở chỗ: tác giả sử dụng biện pháp đối lập để nêu bật tình hình, mà cũng là một tổn thương tinh thần với người chủ tướng. Đối lập với tể phụ, triều đình, về đại từ nhân xưng, tác giả đã không ngần ngại biến chúng thành những loài dã thú. Thú vật hoá quân thù cũng là một cách bộc lộ lòng căm thù tới đỉnh cao, đến tột cùng của nsười chủ tướng. Chưa hết, sự im lặng về phía hành động của các tướng sĩ còn dẫn đến một nguy cơ "như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau". Điểu đó khiến người chủ tướng không thể bình tâm: ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Cái vật vã đến đớn đau của người chủ tướng là căm tức đến nghẹn ngào "VÌ "chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Con người ta ai chẳng là người ham sống, nhưng tác giả tình nguyện chết đến trăm, nghìn lần, chết trong niềm vui vì giải thoát được niềm căm tức. Phóng đại, cường điệu là cách nói dường như không thật, nhưng giờ đây nó lại là "thật" nhất. Khi nỗi uất hận trong lòng như ngọn lửa bốc lên thì không gì kìm giữ nổi. Chỉ có cách nói ấy mới có khả năng đánh thức một cái gì ở đối tượng người nghe.
– Cái đánh thức thứ hai với đối tượng người nghe không chỉ ở nhận thức lí trí. Nó còn sâu lắng trong quan hộ đối đãi ân tình giữa ông và các tướng sĩ của ông, ấy là sự cảm thông chia sẻ. Vị thế xã hội tuy trên dưới khác nhau nhưng tình lại như cha con, ruột thịt, lúc nào cũng săn sóc vỗ về. Sự chia sẻ ở bài văn là có ý thức hẳn hoi, khi thì: "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc", khi thì: "Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày". Ta và các ngươi đã ở vào cái thế song hành, bè đôi, có chung có thuỷ, có nghĩa có tình. Những câu văn theo lối tứ lục (mỗi vế câu có bốn hoặc sáu chữ) đối nhau tương xứng cả ý, cả lời, cả thanh điệu lại viết liền một mạch như nguồn nước tràn đầy không một lúc cạn vơi diễn tả tấm lòng của người chủ tướng. Cảm động biết dường nào khi tướng sĩ, kẻ được nâng đỡ, cưu mang nghe được những câu văn chân thật, chân thật trong sự cảm thông chia sẻ "lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười", chân thật cả trong sự so sánh đối đãi với người xưa: "so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì. Như thế là ta đã làm tròn bổn phận của ta, còn các ngươi?".
– Hiểm hoạ hiện thời – hậu quả của thú hưởng lạc ăn chơi của các ngươi dẫn đến là gì, nếu không phải là nước mất nhà tan? Nước có giặc mà không sẵn sàng đánh giặc, thì nếu có đánh giặc "cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp", "mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh",… tất dẫn đến nguy cơ mà cả ta và các ngươi phải chịu. Nước đã mất, nhà sẽ không còn, ta và các ngươi đều trở thành tù binh của giặc… "Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất". "Chẳng những" và "chẳng những"… bao nhiêu câu văn là bấy nhiêu đau xót ("đau xót biết chừng nào"). Chẳng những kiếp này, còn đến trăm năm sau "tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu". Cách phân tích của tác giả thật sắc sảo, hợp lí, chí tình khi vạch ra hai con đường hoạ, phúc. Hoạ có thể đến nơi mà phúc cũng như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều là chúng khác nhau một vực, một trời. Điều quyết định nằm trong thái độ, trong sự dứt khoát chọn đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? "Nhà" và "Nước" tuy là hai yếu tố gắn liền với nhau, nhưng không thể ngang hàng, không thể xếp theo thứ tự hàng ngang, mà phải cái sau cái trước, bởi "nước mất" thì "nhà tan". Đổ giữ được nước – cũng là giữ được nhà, trọng trách của con nhà võ tướng không còn cách nào khác hơn là luyện tập binh đao, cung kiếm "Khiến cho người nsười giỏi như Bàng Mồng, nhà nhà đều là Hậu Nghệ". Phải tiêu diệt kẻ thù ở chính nơi chúng đã gây ra tội ác, nơi tượng trưng cho quốc thể, nơi tôn miếu thờ cúng của quốc gia, phải "bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai", người viết những điều tâm huyết mới được hả lòng. Sự "hả lòng" ấy sung sướng biết bao nhiêu khi hạnh phúc được bảo vệ, ta và các ngươi lại được an hưởng thái bình, "chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ". Lại những câu, những cặp vế song song đôi một giữa ta và các ngươi, giữa nước với nhà giống như một thứ hạnh phúc bay đôi thật là đủ đầy viên mãn. Trọng lượng của bài văn rơi đúng vào đoạn phân tích thiệt hơn, tác động cùng một lúc đến nhận thức, tình cảm, lương tâm đối với con nhà võ tướng. Đó cũng là một cách lập luận điển hình mẫu mực, không thể có một cách nói nào đúng hơn và hay hơn vào thời điểm đó.
3.Nhận thức được phải trái, đúng sai, nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rút cuộc là "chuyên tập sách này" (cuốn Binh thư yếu lược) hay là khinh bỏ nó. Chăm chỉ học hành, luyện tập "mới chỉ là đạo thần chủ" (ngọn cờ tư tưởng của bài văn, thấm vào từng ý, từng lời) còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người quyền uy tối thượng thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Giọng điệu của lời văn vô cùng nghiêm khắc, hết sức rạch ròi, không còn khoan dung, độ lượng nữa. "Vì sao vậy"? Câu văn hàm chứa hai lượng thông tin, nó cảnh báo một tình hình: nước có thể vẫn giữ dược (vì giữ nước là sự nghiệp của toàn dân) nhưng khi "giặc giã dẹp yên" thì "chỗ đứng của các ngươi không còn. Nước vẫn còn, nhưng hạnh phúc của các ngươi không thể nào có nữa, không chỉ bây giờ mà còn "muôn đời để thẹn", với con cháu các ngươi thì còn gì là tông tổ, gia thanh, còn tiếng thơm đâu mà lưu truyền mãi mãi". Sự tuyệt tự về tinh thần này mới thật là đáng sợ vì nó là một thứ bia miệng ngàn năm ("Trăm năm bia đá thì mòn – Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ"). Đoạn văn cảnh báo, cảnh tỉnh đúng như một thứ quân lệnh (quân lệnh như sơn) không thể có cách hiểu khác, cũng không thể nào làm khác. Ở đoạn kết của bài văn này, một lần nữa đạo thần chủ lại rành rọt cất lên như lẽ sống của con nhà võ tướng: "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục…" nghĩa là không lo báo thù cho chủ, không hành động thì chẳng khác nào "quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc". Thái độ dứt khoát này có tác dụng tập hợp lực lượng, trước hết về mặt tư tướng tinh thần để tướng sĩ trong quân nghìn người như một ("Ba quân hùng khí át sao Ngưu" – Phạm Ngũ Lão). Thế áp đảo của ta đối với bọn giặc thù phải bất đầu từ đó. Binh thư yếu lược dạy cách đánh cụ thể (khi đối mặt với quân thù), nhưng muốn "mưu phạt" phải "tâm công" như sách lược của Nguyễn Trãi sau này mà Trần Quốc Tuấn tuy không nói ra nhưng ông đã làm như vậy.
Bài làm 3
Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.
Tác phẩm hịch tướng sĩ là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A.
Đông – A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần (1226-1400), hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc. Hào khí Đông-A tỏa sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh giặc Nguyên – Mông.
Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể nhắm mắt bịt tai trước những hành vi ngang ngược của sứ giả nhà Nguyên mà ông đã tức giận gọi chúng lũ diều hâu dê chó, hổ đói”, những con vật hung dữ; để bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ. Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng và rắn rỏi, Trần Quốc Tuân vạch mặt bọn giả nhân giả nghĩa, có lòng tham không đáy, mưu toan vét sạch tài nguyên của cải đất nước ta.
"… thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụạ; để thoả lòng tham không cùng, lấy hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,..”
Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuân đã quên ăn, mất ngủ, đau lòng nát ruột vì chưa có cơ hội để “xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù” cho thoả lòng tức giận. Ông sẵn sàng hy sinh, để cho Tổ quốc được độc lập, tự do. Ông viết: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh… đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ.
Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng. Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và căm ghét tận xương tủy, phải tiêu diệt!
Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với luc giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt:
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời hào khí Đông-A.
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa, …, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(…) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon,mê tiếng hát,… thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa.
Ông đã khéo léo nêu lên lòng yêu thương của ông đốì với các tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng cam cộng khổ của ông để khơi gợi sự hồi tâm của họ. Giọng văn của ông vô cùng thiết tha và thấm thìa. Đồng thời tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: “.. không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta tăng chức, lương ít thì ta cấp bổng…”
Tiếp đến, bằng những hình ảnh tiêu biểu đầy xúc động, ông đã nêu lên những hậu quả nghiêm trọng, không những sẽ xảy đến cho ông mà còn cho gia đình những tướng sĩ vô trách nhiệm ấy, một khi đất nước rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng các hệ thống từ dồn dập “chẳng những … mà… cũng” lặp đi lặp lại có giá trị nêu bật những hậu quả tai hại, những nỗi khổ nhục của người dân mất nước, Tổ quốc mất độc lập, tự do:
"… Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…
Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục, phải biết thẹn khi thấy nước nhục, phải biết tức khi thấy nước nhục, phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến ngụy sứ!
Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rũa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyrts chiến quyết thắng, là vinh quang.
Hịch tướng sĩ có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,…, Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông-A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chems đầu thần trước đã! Là tư thế lẫm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: phá cường địch, báo hoàng ân. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ- tử chi binh trăm trận trăm thắng:
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao ngưu.
(Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)
Tóm lại, Hịch tướng sĩ là một trong những tác phẩm lớn nhất, tráng lệ nhất,biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng. Hịch tướng sĩ, còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam.