Trang chủ » Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ lớp 8 hay nhất

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ lớp 8 hay nhất

Bài làm 1
 
Nhớ rừng của Thế Lữ là một bài thơ hay, tiêu biểu của phong trào Thơ mới và của tác giả trên hai phương diện: tính điêu luyện, phóng khoáng, già dặn của Thơ mới và tình cảm yêu nước kín đáo, âm thầm.
Bài thơ có một cấu tứ độc đáo: mượn lời con hổ trong cũi sắt của vườn bách thú nhớ về nỗi nhớ cảnh rừng xanh và những ngày oanh liệt của ngày xưa để nói lên niềm khao khát những cảnh tượng hùng vĩ, tự nhiên, ghét cảnh chăm sửa giả dối, khát khao được tự do biểu hiện sức mạnh tự nhiên của mình, khao khát được giải phóng cá tính. Bài thơ cũng gửi gắm chút tình cảm đối với thời oanh liệt nhất của đất nước. Bài thơ rõ ràng là lời của con hể rồi nhưng tác giả vẫn cứ chưa rõ thêm: Lời con hổ ở vườn bách thú, để tỏ rằng đây không phải là lời của con người. Lời chua này vừa có tác dụng che mắt, nhưng cũng có ý nhắc nhở các nhà suy diễn chớ suy diễn dễ dãi. Hai dòng đầu giới thiệu hiện trạng và tình cảm của con hổ:
 
Gặm một khối căm hờn trong củi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
 
Gặm chứ không phải ngậm, nghĩa như mình tự gặm nhấm, nhấm nháp khối căn hờn của mình. Nhà thơ nói khối căm hờn, bởi khối là một tình cảm to lớn, nguyên vẹn, chưa tan. Người xưa khi nói tới những tình cảm chưa giải tỏa, những tình cảm u uất thường dùng chữ khối tình. Cái tư thế nằm dài thể hiện sự chán ngán, bất lực, không ra vẻ gì là hể nữa, bởi con thú nào mà chẳng nằm dài được? Con hổ đã đánh mất, hay bị tước mất tư thế uy nghi của nó. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, ơ trong tâm hồn, con hổ vẫn còn nguyên là con hổ với những kỉ niệm mãnh liệt, với những tình cảm ngang tàng. Sáu dòng tiếp theo nói lên tình cảnh tủi nhục của con hổ, thể hiện ý thực muôn phân biệt với con người và các con vật khác. Còn gì đau khổ hơn là một con hổ – chúa sơn lâm – mà không ai sợ, bị đem dùng làm đồ chơi, và đặt ngang hàng với gấu, báo? Trong khi đó, so với hổ, chúng chi là một lũ ngẩn ngơ, dở hơi, vô tư lự (không suy nghĩ). 22 dòng tiếp kể về tình thương, nỗi nhớ một thời oanh liệt đã mất: Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa. Hai chữ ngày xưa nghe sao mà xa vời, như không bao giờ có thể trở lại! Đoạn cuối bài thơ thể hiện một tình cảm tha thiết nhưng bi đát, vô vọng. Đã nằm dài trông ngày tháng dần qua rồi lại Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu, và cuối cùng là không còn được thấy bao giơ, mạch tình cảm làm cho nỗi nhớ nhung của tác giả mang ý vị vĩnh biệt. Nhớ rừng vừa là khát vọng về thiên nhiên, tự do, khoáng đạt, khát vọng làm chủ giang sơn, vừa là tiếng thở dài mang ý vị vĩnh biệt không hòa nhập với thế giới giả tạo. Dù thời oanh liệt không còn nữa, dù nó một đi không trở lại, thì con hổ vẫn mãi mãi thuộc về thời dã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, mua vui cho con người, không hòa nhập vào thời hiện tại. Bài thơ cũng gửi gắm một tình cảm yêu nước. Nhà phê bình văn học Lê Đình Kị viết: “Trong thơ ca lãng mạn 1932 — 1945 không nói tới tình yêu, không đi sâu vào những tình tự riêng mà gây được tác động mạnh, trước hết phải nhớ đến bài Nhớ rừng nổi tiếng của Thế Lữ. Chuyện con hổ ở vườn bách thú nhưng cũng là chuyện của con người phải sống trong tù ngục của chế độ cũ. Đọc những câu thơ của Thế Lữ, người ta rất dễ liên hệ với thân phận sống trong xiềng xích, bị tước mất tự do, bị trói buộc đủ đường thời Pháp thuộc. Cái quá khứ oai hùng của con hể trước lúc bị giam cầm cũng rất dễ làm ta nhớ tiếc cái quá khứ oai hùng của cha ông. Càng nhớ tới thời oanh liệt, càng thấy uất ức vì phải bị tù hãm, xung quanh toàn những cái nhỏ nhen, tầm thường”. Đó là những lời phân tích chí lí.
Bài thơ đầy ắp những sáng tạo về câu chữ, nhịp điệu. Những từ mới tạo: bốn phương ngàn, giấc mộng ngàn; những từ văn xuôi: bọn gấu dở hơi, len dưới nách những mô gò thấp kém, cảnh rừng ghê gớm,… bên cạnh những từ thi vị. Những câu thơ vắt dòng, dài, với liên từ vốn làm cho ý thơ mở rộng, câu thơ co duỗi thoải mái, khác hẳn thơ luật truyền thống, thể hiện trọn vẹn một đặc điểm của Thơ mới đương thời, đó là tạo dáng lại cho câu thơ tiếng Việt.
 
Bài làm 2
 
Trong nền văn học Việt Nam, có thể thấy phong trào Thơ mới là một trong những phong trào tạo ra sức sống mãnh liệt nhất đối với những người làm thơ văn của thời kì đó. Thơ mới không còn chịu sự gò bó và ép buộc của những quy tắc về mặt trình bày và nội dung nữa. Người nghệ sĩ qua đây được tự do thể hiện tình cảm, tâm tư của mình đối với mọi thứ mà mà mình quan tâm. Và Thế Lữ chính là một trong những cây bút đi đầu của phong trào Thơ mới. Tác phẩm ghi lại dấu ấn của ông là bài thơ “ nhớ rừng”. Tuy  miêu tả hình ảnh, tình cảm cùng những suy nghĩ của con hổ trong vườn bách thú những qua đó, tác giả như khéo leo nói lên nguyện vọng của chính những con người Việt Nam trong hoàn cảnh  lúc bấy giờ.
 
Gậm một nỗi căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông tháng ngày dần qua
 
Hổ vốn được mệnh danh là loài chúa sơn lâm. Vậy mà giờ đây lại phải chịu cảnh bị vây trong lồng sắt và không thể làm được bất cứ điều gì. Điều đó có lẽ là điều bi ai nhất của chúa tể rừng xanh.
 
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
 
Ngày ngày, chú hổ phải chịu cảnh bị người người chỉ trỏ, xem xét. Đó vốn không hề là cuộc sống của chú. Thái đọ của con hổ tuy đã bị bắt nhưng vẫn vô cùng oai nghiêm, nó gọi những con người đi trong sở thú chỉ là những kẻ không biết, những kẻ ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nhất là khi Hổ phải sống trong cảnh những con vật gần chỗ của nó không hề có những thái đọ gì, hoàn toàn chúng chỉ có sự cam chịu như “con gấu dở hơi”, “ cặp báo vô tư lự”. bởi thế, không còn cách nào khác, Hổ chỉ còn có thể nghĩ về quá khứ hào hùng, vang dội của mình. Nhớ lại những kỉ niệm khi mà bản than mình vẫn còn là chúa sơn lâm không lo sợ, không suy nghĩ, được tự do trong rừng làm chúa tể của cả một vùng.
 
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
 
Lúc nãy đây, Hổ như chìm vào những hồi ức của mình với nỗi nhớ rừng nơi chốn cũ cùng những “bóng cả”, ” cây già”, những tiếng thét vang vọng cả ngọn núi. Tất cả đã tạo nên sự dũng mãnh của Hổ- khiến những con vật khác phải hoảng sợ mà nể phục dưới những bước chân của chúa sơn lâm. 
Thế nhưng, dù có thế nào thì những hồi ức ấy mãi chỉ có thể ở trong trí nhớ. Giờ đây, Hổ đã không còn cơ hội quay trở lại như trước nữa. Chú chỉ có thể than trách cho cuộc sống của mình bởi Hổ đã không còn tự do nữa:
 
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Để cuối cùng, Hổ đã phải thốt lên rằng
Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?
 
Câu thơ như hiện lên sự bất lực của con vật. Những đồ nhân tạo mà con người tạo ra cho nó không bao giờ có thể thay thế được những gì của tự nhiên đã tạo ra. Tất cả chỉ là sự kệch cỡm mà thôi.
 
Miêu tả suy nghĩ của Hổ nhưng thong qua bài thơ, tác giả cũng đã thể hiện hoàn cảnh và những suy nghĩ của con người Việt Nam lúc bấy giờ. Những lời dỗ ngon ngọt của kẻ thù mãi mãi không bao giờ có thể làm cho dân tộc ta quên đi nỗi căm hận với chúng và sự khao khát tự do, khao khát được giải phóng.
 
Bài làm 3
 
Thế Lữ là một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới buổi đầu. Với một hồn tho dồi dào, đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho thơ mới. Một trong những tác phẩm tiêu biểu và góp phần mở đường cho sự thắng lợi của thơ mới là Nhớ rừng. Bài thơ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
 
Bài thơ có thể dễ thấy hai phần tương phản tách biệt. Phần đầu là tâm trạng của con hổ khi bị nhốt trong lồng, cảnh tù túng nơi vườn bách thú với những thứ cảnh vật nhân tạo do con người tạo ra:
 
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
 
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
 
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.”
 
Bị nhốt trong cũi sắt, con hổ buồn chán, “căm hờn” nhưng cũng không biết làm thế nào, đành nằm dài, gặm nỗi căm hờn ấy nhìn ngày tháng dần trôi qua. Thật buồn chán biết bao. Trong cũi sắt, bị đem ra làm trò chơi cho con người, để con người nhìn ngắm. Con hổ nhìn người với ánh mắt khinh thường, khinh thường họ ngạo mạn, không biết gì, gương mặt bé chế giễu hổ, vốn là con vật có sức mạnh linh thiêng nơi rừng thẳm, vì sa cơ mà phải bị nhốt tại đây. Ở trong vườn thú, xung quanh cũng chỉ toàn những con vật “dở hơi”, yếu đuổi. Dưới con mắt của hổ thì nơi đây không phải thuộc về nó, lời lẽ bộc lộ rõ sự chán nản cùng mệt mỏi.
 
Nằm dài trong cũi sắt, son hổ sống với nỗi nhớ những ngày xưa cũ nơi rừng núi, ngôi nhà của hổ, nhớ những ngày tung hoàng hống hách ở giang sơn của chính nó. Nó nhớ tất cả cảnh vật nới rừng núi nó vốn thuộc về. Nhớ những ngày sống giữa núi rừng đầy quyền uy:
 
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thốt khúc trường ca dữ dội,
 
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
 
Lượn tấm thân như sóng cuộc nhịp nhàng,
 
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
 
Trong hang tối mắt thần khi đã quắc,
 
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
 
Ta biết ta chú tể cả muôn loài,
 
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”
 
Tất cả những gì con hổ nhớ lại đều là quá khứ oanh liệt của nó, quá khứ mà ở đó nó là bá chủ. Những câu thơ liên tục thể hiện sự quyền uy, bước chân “dõng dạc, đường hoàng”. Cảnh săn mồi được miêu tả thực oai phong, tấm thân hổ như “sóng cuộn nhịp nhàng”, vờn con mồi trong lá gai rồi cỏ cây. Trong đêm tối, mắt thần của nó lướt qua là khiến cho muôn loài phải e sợ. Và chính nó cũng nhận thức được sức mạnh của mình, con hổ biết nó là “chúa tể” muôn loài giữa nơi cây cối, cỏ hoa không tên tuổi.
 
Đặc biệt, thứ khiến con hổ nuối tiếc và nhớ nhất là những đêm săn mồi đầy thú vị của nó dưới ánh trăng tan. Ở đoạn thơ này, tác giả đặc biệt sử dụng những hình ảnh rất đẹp và có sức gợi tả cao. Con hổ nhớ lại những đêm trăng sáng, như đêm vàng bên bờ suối, “say mồi” đứng uy nghiêm uống nước suối như uống cả ánh trăng. “Ta say mồm đứng uống ánh trăng tan”. Rồi còn cả những ngày mưa to gió lớn như lay chuyển cả bốn phương rừng núi, duy con hổ vẫn bình tĩnh. “Lặng ngắm giang sơn đổi mới”. Rồi cả những bình minh sáng tinh mơ với cây xanh, thiên nhiên hoang dã cùng tiếng chim ca khiến giấc ngủ tưng bừng. Hình ảnh chú sơn lâm đợi hoàng hôn xuống, bóng tối trùm kín muôn nơi để săn mồi, chiếm phần của mình. Cuộc sống nơi rừng núi hoang dã là chốn lý tưởng cho con hổ, là nơi ở đó nó được sống đúng với bản chất của nó thế nên cuối đoạn không hề ngạc nhiên khi lời than được bật ra “-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
 
Hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, chúa tể muôn loài của mình rồi hổ nhìn thẳng vào thực tại tù túng. Những uất hận dâng lên:
 
“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
 
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
 
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
 
Hoa chăm, cỏ xén, lỗi phẳng, cây trồng;
 
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
 
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
 
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
 
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
 
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.”
 
Nếu xưa kia được sống trong núi rừng với thiên nhiên bao la rộng lớn, sông một cuộc đời hoang dã với suối nước trong, cây cổ thụ ngàn tuổi…. thì giờ đây là một hoàn cảnh sống hoàn toàn trái ngược lại. Không những tù tắng, chật hẹp mà cảnh vật đều là giả, do bàn tay con người tạo ra. Hoa cỏ, suối nước không còn sức sống nới rừng núi. Nhưng mô gò thì thấp, không giống chỗ đứng của chú sơn lâm. Con hổ, còn chế nhạo việc tạo ra thiên nhiên giả này của con người, cho đó là sự học đòi “bắt chước vẻ hoang vu. Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.”
 
Đến khổ cuối, dường nhứ tất cả đã chuyển thành tiếng kêu cứ khẩn thiết. Hầu hết tất cả đều là câu cảm thán.
 
“Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ!
 
….Nơi ta không còn được thấy bao giờ
 
…-Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
 
Những nhớ nhung về núi rừng thời xưa cũ đã chuyển thành tiếng kêu, sự gào xé trong tâm can con hổ. Những mong ước được quay về chốn vưa để thỏa chí vẫy vùng, tiếp tục theo những giấc mộng ngàn, hồn được sống cùng núi rừng. Những mong ước khát khao và mãnh liệt ấy dưới ngòi bút Thế Lữ đã được truyền tải một cách thực sự sâu sắc và chân thực.
 
Thế lữ thực sự thể hiện tài năng của mình bằng việc mượn lời con hổ bị giam trong vườn bách thú để nói lên tâm trạng của người dân Viêt Nam đương thời, đối mặt với quá nhiều khó khăn thách thức, cuộc sống luôn bức bách, tuy bên ngoài tỏ vẻ nhẫn nhịn nhưng thực chất đang kêu gào đòi tự do, khát khao yêu nước mãnh liệt luôn ẩn chứa trong đó. Đây thực sự là một bài thơ nói hộ nỗi lòng của người dân lúc ấy, nói hộ cả những tiếng than trong vô vọng.
 
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bà Nhớ Rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằN vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Quả thực như vậy, đọc nhớ rừng mới thấy hết được điều này, sức biểu cảm mạnh mẽ qua từng câu chữ của tác giả, quả không hổ danh là một bài thơ xuất sắc trong nền thơ mới.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top