Trang chủ » Phân tích đoạn trích Đánh nhau với côi xay gió của Xéc-van-tét lớp 8 hay nhất

Phân tích đoạn trích Đánh nhau với côi xay gió của Xéc-van-tét lớp 8 hay nhất

Bài làm 1
 
Xéc-van-tex (1547 – 1616) là nhà văn nổi tiếng của đất nước Tây Ban Nha, Ông đã để lại cho nhân loại nhiều kiệt tác, trong đó có tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê làm say mê bao thế hệ người đọc trên thế giới, cốt truyện tóm tắt như sau:
 
Một lão quý tộc nghèo ở nông thôn tên là Ki-ha-đa, tuổi khoảng năm mươi, thân hình cao lênh khênh, gầy gò ốm yếu trông rất buồn cười. Vì quá say mê loại truyện hiệp sĩ phiêu lưu nên lão nung nấu ước mơ trở thành hiệp sĩ lang thang để trừng trị quân gian ác, diệt trừ yêu quái và lũ khổng lồ xấu xa, đem lại công lí cho người lương thiện. Lão hì hục sửa chữa những đồ binh khí đã han rỉ của tổ tiên dể trang bị cho mình rồi tự phong là “hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-cha” và đặt tên cho con ngựa già gầy còm là “chiến mã Rô-xi-nan-tê”.
 
Để cho đúng mốt của hiệp sĩ lang thang là phải có người tình xinh đẹp, lão chợt nhớ đến một phụ nữ nông dân mà lão thầm yêu từ hồi còn trai trẻ và đặt cho mụ cái tên rất quý phái là công nương Đuyn-xi-nê-a. Lão thuê một bác nông dân hàng xóm béo lùn tên là Xan-chô Pan-xa làm giám mã kiêm hộ vệ. Hai thầy trò bắt đầu chuyến phiêu lưu diệt ác, trừ gian.
 
Sau bao lần giao chiến với những kẻ thù tưởng tượng, Đôn Ki-hô-tê bị đánh tả tơi và thất bại ê chề. Cuối cùng, lão trở về nhà. Buồn bã và kiệt sức, Đôn Ki-hô-tê ốm nặng. Đến lúc này, lão mới nhận ra hậu quả tai hại của những truyện kiếm hiệp rẻ tiền. Lão viết di chúc để lại rồi qua đời.
 
Đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió kể về một trong những trận giao chiên của Đôn Ki-hô-tê. Nội dung xoay quanh mấy sự việc chính: Sự xuất hiện của cối xay gió. Đôn Ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió. Đôn Ki-hô-tê bị thương. Việc ăn ngủ của hai thầy trò trên đường đi. Qua đó, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ rõ nét.
 
Bằng nghệ thuật trào lộng sắc sảo, tác giả châm biếm loại người sống theo ảo tưởng, tuy có mục đích sống đúng đắn nhưng chọn đối tượng và phương pháp để thực hiện mục đích lại sai nên dẫn đến thất bại. Mặt khác, tác giả cũng kín đáo nhắc nhở mọi người là không nên quá thực dụng, ích kỉ.Tên chương truyện là Đánh nhau với cối xay gió nhưng tác giả không kể nhiều về diễn biến cuộc đánh nhau mà chủ yếu đi sâu miêu tả tính cách hai nhân vật Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa trong suốt quá trình trước, trong và sau cuộc giao tranh. Sự tương phản hoàn toàn giữa chủ và tớ đã tạo nên một cặp nhân vật bất hủ trong văn học thế giới. Tính cách của Đôn Ki-hô-tê thật nực cười, tuy vậy lão cũng có ít nhiều ưu điểm. Bác nông dân Xan-chô Pan-xa có những mặt tốt, song cũng có nhiều điểm đáng chê trách.
 
Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê cao lênh khênh, gầy nhẳng, trông như một bộ xương biết đi. Lão mặc áo giáp, đầu đội mũ sắt, vai vác giáo dài, cưỡi trên lưng con ngựa già còm nhom, hăng hái lên đường lập chiến công. Đang đi, chợt hai thầy trò phát hiện ra ba bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng và Đôn Ki-hô-tê vừa nhìn thấy liền nói với giám mã bằng giọng tràn đầy khí thế: Vận may run rủi khiến cho sự nghiệp của chúng ta tốt đẹp quá sự mong muốn, vì kia kìa, anh bạn Xan-chô Pan-xa ơi, có đến ba chục hoặc trên ba chục tên khổng lồ ghê gớm, ta quyết giao chiến giết hết bọn chúng.
 
Đôn Ki-hô-tê háo hức tưởng tượng ra kết quả của cuộc giao chiến này là vừa thoả chí bình sinh, vừa thu được chiến lợi phẩm, vừa hành động hợp với ý Chúa: Những chiến lợi phẩm thu được, chúng ta sẽ bắt đầu giàu có. Bởi đây là một cuộc chiến đấu chính đáng và quét sạch cái giống xấu xa này ra khỏi mặt đất là phụng sự ý Chúa đấy.
 
Đầu óc Đôn Ki-hô-tê bị ám ảnh thường xuyên bởi những truyện kiếm hiệp rẻ tiền trong tủ sách của lão nên đâm ra mê muội, điên rồ. Thế mới sinh ra chuyện lão nhìn những chiếc cối xay gió hiền lành, quen thuộc thành bọn khổng lồ hung ác, xa lạ. Mặc cho Xan-chô hết lời giải thích, Đôn Ki-hô-tê vẫn khăng khăng không chấp nhận sự thật. Lão muốn ra tay tiêu trừ lũ khổng lồ xấu xa ấy. Mục đích của lão rất tốt, chi tiếc rằng cái đầu óc hoang tưởng kia đã làm cho nó trở nên hão huyền. Ta hãy nghe lão cao giọng phê phán bác giám mã Xan-chô: Xem ra anh chẳng thành thạo gì về những chuyện phiêu lưu… Đấy là những tên khổng lồ, và nếu anh sợ thì hãy lánh xa ra mà cầu kinh trong lúc ta sẽ đương đầu với chúng trong cuộc giao tranh điên cuồng và không cân sức.
 
Chẳng biết sợ là gì, Đôn Ki-hô-tê hung hăng vung giáo xông vào đánh. Nếu đối thủ của lão thật sự là quân gian ác cần tiêu diệt thì hành động của lão là dũng cảm, đáng khen, nhưng lão lại đánh nhau với những cối xay gió vô tri vô giác cho nên hành động ấy hóa nực cười: Đôn Ki-hô-tê thúc con Rô-xi-nan-tê xông lên chẳng thèm để ý tới giám mã Xan-chô đang hét bảo là rõ ràng xông vào đánh những cối xay gió chứ không phải là bọn khổng lồ.
Đặc điểm của nhân vật Đôn Ki-hô-tê là bảo thủ đến mức cực đoan, cố tình phủ nhận sự thật. Rõ ràng trước mắt lão là đám cối xay gió nhưng trong bụng vốn đinh ninh phía trước là những tên khổng lồ nên Đôn Ki-hô-tê chẳng những không nghe lời can ngăn của giám mã Xan-chô, mà khi đã tới gần cũng chẳng nhận ra đấy là những chiếc cối xay; đã thế, lão còn thét lớn: “Chớ có chạy trốn, lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây”.
 
Cuộc giao chiến giữa người với vật được tác giả miêu tả bằng giọng văn hài hước, hóm hỉnh: Vừa lúc đó nổi lên một làn gió nhẹ và các cánh quạt lớn của những chiếc cối xay gió bắt đầu chuyển động; thấy thế, Đôn Ki-hô-tê liền nói: "Dù cho bọn ngươi có vung nhiều cánh tay hơn cả gã khổng lồ Bri-a-rô-ô, các ngươi cũng sắp phải đền tội”. Nói xong, lão nhiệt tình thành tâm niệm cầu mong nàng Đuyn-xi-nê-a của mình cứu giúp cho trong lúc nguy nan này; rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, lão thúc con Rô-xi-nan-tê phi thẳng tới chiếc cối xay gió gần nhất ở trước mặt, và đâm mũi giáo vào cánh quạt; gió làm cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả người và ngựa ngã văng ra xa.
 
Người đọc vừa bật cười trước suy nghĩ ngớ ngẩn và hành động dại dột, vừa thương hại cho Đôn Ki-hô-tê khi cả người lẫn ngựa đã bị cánh quạt của chiếc cối xay gió văng trúng, ngã lăn ra đất.
 
Thấy tình cảnh của chủ như vậy, Xan-chô Pan-xa vội thúc lừa chạy đến cứu, và khi tới nơi thì thấy chủ nằm không cựa quậy. “Giúp tôi với, lạy Chúa, Xan-chô nói, tôi đã chẳng bảo ngài rằng phải coi chừng cẩn thận đấy ư, rằng đó chi là những chiếc cối xay gió, ai chẳng biết thế, trừ kẻ nào đầu óc cũng quay cuồng như cối xay Ị”. Giám mã Xan-chô nói rất đúng tâm trạng của Đôn Ki-hô-tê lúc này. Nhưng trong tình thế dở cười dở khóc ấy, lão vẫn ngoan cố cho rằng việc làm của mình là đúng và vẫn tự lừa dối bằng những lời lẽ hoa mĩ hoang đường, bịa đặt: Thôi im đi, anh bạn Xan-chô… chuyện chinh chiến thưởng biến hoá khôn lường chứ không như các chuyện khác; bởi lẽ, ta cho rằng, và đúng là như thế, chính lão pháp sư Phơ-re-xtôn trước đây đã đánh cắp thư phòng và sách vở của ta, bây giờ lại biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng, vì lão thâm thù ta lắm cơ; nhưng rồi các pháp thuật xấu xa của lão cũng sẽ không thể nào đối chọi với thanh kiếm lợi hại của ta. Đến nước này thì giám mã Xan-chô chi còn biết lắc đầu và cầu Chúa hết sức phù hộ cho và nâng Đôn Ki-hô-tê dậy, đỡ lão ngồi tại trên lưng con Rô-xi-nan-tê cũng bị toạc nửa vai!
 
Tuy bị trọng thương nhưng Đôn Ki-hô-tê không hề rên rỉ. Tinh thần chịu đựng kiên cường ấy cũng đáng khen nhưng rất tiếc đấy lại là do lão cố bắt chước đúng như các hiệp sĩ giang hồ… trong sách: Ta không kêu đau là vì hiệp sĩ giang hồ có bị thương thế nào cũng không được rên rỉ, dù xổ cả gan ruột ra ngoài.
 
Đôn Ki-hô-tê không quan tâm đến những nhu cầu vật chất dù là tối thiểu, trong khi bao kẻ chi lo ăn cho đầy bụng, ngủ cho đẫy mắt. Nhưng điều tưởng chừng tốt đẹp đó lại xuất phát từ động là vì tình nương Đuyn-xi-nê-a! Trong tính cách của nhân vật Đôn Ki-hô-tê tuy có một số điều tốt đẹp như căm ghét áp bức bất công, sẵn sàng xả thân, mong muốn lập lại trật tự xã hội, đem lại công lí cho người nghèo… nhưng do tiêm nhiễm quá nặng nội dung của loại truyện kiếm hiệp nhảm nhí nên lão tự biến mình thành nhân vật nực cười, đáng trách mà cũng đáng thương.
 
Nhận thức sai lầm đã dẫn Đôn Ki-lìô-tê đến hành động sai lầm nhưng lão vẫn cố ngụy biện để bảo vệ chủ kiến của mình. Đây cũng là tính cách chung của một hạng người trong xã hội đương thời mà tác giả muốn phê phán. Rõ ràng, đấu tranh với sai lầm của bản thân cũng là một cuộc chiến gay go, gian khổ.
 
Tương phản hoàn toàn với Đôn Ki-hô-tê là giám mã Xan-chô Pan-xa béo lùn, thực dụng và láu cá. Bác ta nhận làm giám mã cho Đôn Ki-hô-tê với hi vọng sau khi công thành danh toại, ông chủ sẽ cho bác làm thống đốc, cai trị một vài hòn đảo giữa biển khơi. Suốt cuộc phiêu lưu, giám mã đủng đinh cưỡi lừa đi theo chủ và lúc nào cũng mang theo bầu rượu cùng cái túi hai ngăn đựng đầy thức ăn ngon.
 
Đầu óc Xan-chô hoàn toàn tỉnh táo. Khi chủ khẳng định mấy chục chiếc cối xay gió trước mặt là những tên khổng lổ, bác ngạc nhiên hỏi: Những tên khổng lồ nào cơ? Rồi giải thích thật cặn kẽ: Thựa ngài, xuất hiện ở kia chẳng phải là các tên khổng lồ đâu mà chi là những cối xay gió, và cái vật trông giống cánh tay lá những cánh quạt, khi có gió thổi, chúng sẽ quay tròn làm chuyển động cối đá bên trong. Chủ vẫn khăng khăng muốn đánh nhau, bác ra sức can ngăn. Khi chủ lâm nạn, bác vội thúc lừa tới cứu và xót xa vì chủ bị ngã quá đau. Cách xử sự đó chứng tỏ bác ta tử tế và biết thương người. Bên cạnh đó, bác ta là người sống rất thực dụng. Đoạn miêu tả cung cách ăn uống thể hiện khá rõ tính cách ấy: Xan-chô nhắc chủ đã đến giờ ăn. Đồn Ki-hô-tê đáp là lúc này chưa cần ăn, nếu Xan-chô đói thì cứ tự nhiên. Được phép, Xan-chô ngồi lại cho thật thoải mái trên lưng lừa, lấy các thứ ở trong cái túi hai ngăn ra, vừa đi theo chủ vừa ung dung đánh chén, thỉnh thoảng lại tu bầu rượu một cách ngon lành khiến tay chủ quán rượu dễ thương nhất ở Ma-la-ga cũng phải phát ghen. Vừa đi vừa chè chén như thế, Xan-chô chẳng còn nhớ gì đến những lời hứa hẹn của chủ và cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu này dù có nguy hiểm đến đâu cũng chẳng vất vả gì mà lại thoải mái nữa là khác…
 
Việc ngủ của hai thầy trò cũng được tác giả miêu tả rất đúng với tính cách từng người. Suốt đêm, Đôn Ki-hô-tê không cần ngủ mà thức trắng để suy nghĩ viển vông: … Đêm hôm ấy, hai người ở dưới các vòm cây và Đôn Ki-hô-tê bẻ một cành khô, rút cái mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo. Đôn Ki-hô-tê suốt đêm không ngủ để nghĩ tới nàng Đuyn-xi-nê-a của lão, bắt chước những hiệp sĩ lão từng đọc trong sách thức trắng nhiều đêm ròng ở trong rừng hoặc nơi hoang mạc liên tưởng nhớ tới tình nương…
 
Trái lại, Xan-chồ Pan-xa thì không thế, bởi vì dạ dày no căng toàn là rượu thịt, bác ngủ một mạch và nếu như chủ không gọi, thì dù ánh nắng chiếu thẳng vào mặt và vô số tiếng chim líu lo đón mừng một ngày mới có lẽ cũng không đủ để đánh thức bác. Vừa ngủ dậy, bác vớ ngay lấy bầu rượu, thấy nó nhẹ hơn tối hôm trước nên buồn rầu vì xem chừng trên quãng đường này khó đào đâu ra rượu ngay để đổ vào cho đầy.
 
Đối chiếu giữa Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa về mọi mặt, ta sẽ thấy mục đích của nhà văn là cố tình xây dựng một cặp nhân vật tương phàn hoàn toàn. Đặt cạnh nhau, người này sẽ làm cho tính cách của người kia nổi bật.
 
Đôn Ki-hô-tê dòng dõi quý tộc, Xan-chô Pan-xa nguồn gốc nông dân. Đôn Ki-hô-tê gầy gò, cao lênh khênh lại cưỡi trên lưng con ngựa còm nên trông như càng cao thêm. Xan-chô Pan-xa đã béo lùn lại ngổi trên lưng lừa nên càng lùn tịt.
 
Đôn Ki-hô-tê có khát vọng cao cả, Xan-chô Pan-xa chi có ước muốn đời thường. Đôn Ki-hô-tê mong giúp ích cho đời, Xan-chô Pan-xa chi nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Đôn Ki-hô-tê mê muội, Xan-chô Pan-xa tỉnh táo. Đôn Ki-hô-tê hão huyền, Xan-chô Pan-xa thực tế. Đôn Ki-hô-tê dũng cảm, Xan-chô Pan-xa nhút nhát. Tính thực dụng quá đáng của bác giám mã nông dân góp phần tô đậm thêm đầu óc hão huyền của lão hiệp sĩ dòng dõi quý tộc. Hợp nhất hai nhân vật này lại, ta sẽ có bức chân dung hoàn chỉnh về tính cách con người, kể cả mặt tích cực và tiêu cực. Thiên tài của nhà văn Xéc-van-tex chính là ở đó.
 
Bài làm 2
 
Cuốn tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất thời Phục hưng. Nó đã làm tên tuổi Xéc-van-téx trở thành bất tử, sống mãi trong lòng nhân loại cùng với những tên tuổi lừng danh như Sêcxpia, Ra-bờ-le,… – vị trí vinh quang của những người đặt nền móng cho nền văn học thời đại mới.
 
Xéc-van-téx đã viết cuốn tiểu thuyết này trong vòng 10 năm (1605-1615), ông viết trong nghèo khổ và nghiệt ngã của cuộc đời. Khi tập II ra đời, cuốn tiểu thuyết trọn bộ thì chỉ một năm sau nhà văn qua đời.
 
Đôn Ki-hô-tê xuất thân là một lão quý tộc nghèo ở nông thôn tên là Ki-ha-đa. Người lão gầy gò, cao lênh khênh, và trạc năm chục tuổi. Lão say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu, đầu óc lão ngày một trở nên mụ mẫm, chìm đắm trong mộng tưởng hão huyền. Lão mơ ước trở thành một hiệp sĩ giang hồ đi khắp nước Tây Ban Nha, phò đời cứu nguy, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập lại trật tự và công lí, để lại bao chiến công oanh liệt cho đời.
 
Con ngựa gầy được lão phong cho cái tên rất oai: chiến mã Rô-xi-nan-tê. Lão tự xưng là hiệp si Đôn Ki-hô-tê xứ Man-tra. Anh nông dân lùn, cục mịch được lão phong tước: giám mã Xan-trô Pan-xa. Đã là hiệp sĩ thời thượng thì phải có tình nhân. Lão nhớ ngay một phụ nữ mà lão thầm yêu trộm nhớ thời còn trai trẻ, lão liền ban cho ả nhà quê này một cái tên rất quý tộc, mĩ miều: Công nương Đuyn-xi-nê-a đuy Tô-bô-xô. Lão làm lễ thụ phong trước ngày lên đường chinh chiến. Có một chi tiết khá thú vị là trong lễ thụ phong này tại quán trọ, hai ả gái điếm được nhà hiệp sĩ xứ Man-tra ban tước thành 2 công nương vô cùng tôn quý. Hài hước nhất là lão tìm được binh khí, giáp trụ của tổ tiên đã han gí, rồi lão sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình.
 
Đó là những điều cần biết về hiệp-sĩ Đôn Ki-hô-tê khi chúng ta tìm hiểu chuyện “Đánh nhau với cối xay gió" của lão. Sau trận đánh nhau với bọn lái buôn vì họ không chịu nhận công nương Đuyn-xi-nê-a là đẹp nhất trần gian, Đôn Ki-hô-tê bị nện một trận nhừ tử, bị bắt đưa về làng một thời gian, giờ đây lão lại ra đi với mộng chiến công mới. Lần này có quan giám mã Xan-trô Pan-xa theo hầu. Trận đánh nhau với lũ cối xay gió là một trận đánh nảy lửa, là đỉnh cao của màn hài kịch, chế giễu những kẻ ngông cuồng, mê muội, luôn luôn sống trong mộng tưởng hão huyền.
 
Đoạn văn hài hước hóm hỉnh. Nghệ thuật dựng cảnh và kể chuyện rất tài tình làm hiện lên một trận đánh thời trung cổ. Có dàn trận. Có đấu khẩu trước lúc giao phong. Có cảnh đánh nhau dữ dội, quyết tử. Có bãi chiến trường sau trận đánh diễn ra. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê là một “người hùng” đích thực sống trong ảo tưởng hão huyền, sự mụ mẫm đã lên đến cực độ, cối xay gió mà lão cho là khổng lồ quái vật! Ngôn ngữ khoác lác, trống rỗng, đại ngôn, cũng thét vang lúc xung trận. Cử chỉ, điệu bộ và hành động cũng rất tự tin, đàng hoàng, cực kì oai phong lẫm liệt! Đúng là coi cái chết nhẹ tựa lông hồng! Hình ảnh Đôn Ki-hô-tê nằm không cựa quậy trên mặt đất trước cặp mắt của quan giám mã là nét vẽ biếm họa đặc sắc nhất có giá chế giễu tầng lớp hiệp sĩ thời trung cổ đã lỗi thời! Người đọc không nhịn được cười khi lão hiệp sĩ cầu cứu tình nương trước lúc giao đấu!Trận đánh diễn ra vào lúc ban trưa. Từ xa nhìn thấy ba bốn chục cối xay gió giữa đồng, hiệp sĩ xứ Man-tra reo lên vì “vận may” đã tới, quân địch là “mấy chục tên khổng lồ hung tợn ", mà cánh tay mỗi đứa dài tới gần 2 dặm. Không biết là lão có hay mỗi dặm dài đến 432 mét, đâu phải vừa? Lão phải kết liễu đời lũ khổng lồ yêu quái này, trước là để thu chiến lợi phẩm mà trở nên giàu sang phú quý, sau nữa là quét sạch cái giống xấu xa này khỏi trái đất và để “phụng sự Chúa'. Phải công bằng mà nói rằng, tuy lão có "nhìn gà hóa cáo" nhưng mục tiêu chiên đấu của lão không kém phần thiêng liêng! Mặc dù giám mã Xan-trô Pan-xa hết lời can ngăn, nhưng lão hiệp sĩ bỏ ngoài tai hết. Trước khi đánh nhau, Đôn Ki-hỏ-tê ăn nói rất "hùng hồn”. Lúc thì nạt quan giám mã: “Nếu anh sợ thì hãy mau mau lánh ra xa mà cầu kinh trong lúc ta đương đầu với chúng trong một cuộc giao tranh gay go và chênh lệch". Lúc thì lão hiệp sĩ thét lớn, đằng đằng sát khí: “ lũ súc sinh kia, không dược chạy trấn! Có ta là hiệp sĩ một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây!”. Lúc thì oai phong lẫm liệt cảnh cáo: "Dù cho bọn ngươi cố vung nhiều cảnh hơn cả khổng lồ Bri-a-rê-ô, các ngươi cũng phải đền tội”. Trước lúc vào giao phong với lũ khổng lồ này mà cánh tay mỗi đứa dài gần bằng 2 dặm thì khổng lồ Bri-a-rê-ô xa xưa dù có đến 100 cánh tay cũng chẳng so sánh được, vì thế Đôn Ki-hô-tê không quên “cầu cứu nàng Đuyn-xi-nê-a phù hộ và giúp cho trong cơn nguy biến này”. Tư thế của lão hiệp sĩ vô cùng dũng mãnh, hiên ngang ‘lấy khiên che kín thân, tay lăm lâm ngọn giáo, thúc con Rô-Xi-nan-tê phi thang tới chiếc cối xay gió gần nhất”. Lão đã “đâm mũi giáo vào cánh quạt cối xay”. Tưởng là lũ khổng lồ sẽ máu đổ xương tan. Ai ngờ “gió nổi lên dữ dội, cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành”. Đây là hình ảnh lão hiệp sĩ lừng danh trên chiến địa: "Cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh ra đất”. Và lúc quan giám mã thúc lừa tới cứu thì đã thấy chủ tướng “nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng”.
 
Câu chuyện giữa hai thầy trò sau trận đánh nhau với cối xay gió cũng cực là thú vị. Chết mà nết không chừa! Bị thảm bại nhục nhã mà vẫn còn khoác lác. Trước lời an ủi của quan giám mã, Đôn Ki-hô-tê đã chỉ cho anh béo lùn biết rằng cái nghĩ cung kiếm ‘luôn luôn biến chuyển”, nghĩa là sự thắng, bại là chuyện bình thường. Nguyên nhân thất bại theo Đôn Ki-hô-tê rất bất ngờ vì lão pháp sư Phơ-re-xtôn đã đánh cắp mất "sách vở” bảo bối của lão. Hắn đã “thâm thù ta”, hắn đã tước mái phần vinh quang chiến thắng của ta! Đúng là khẩu khí của hiệp sĩ xứ Man-tra lừng danh thiên hạ!
 
Thương cho con ngựa gầy nhom “bi toạc nửa lưng” vẫn phải cõng chủ. Đôn Ki-hô-tê quyết định đi về phía cảng, hi vọng “sẽ gập được nhiều chuyện mạo hiểm khác” mà thi thố tài năng. Hiệp sĩ tỏ ra rất buồn phiền về cái giáo bị gãy. Cái vốn sách vở kiếm hiệp lại ru lão ta vào giấc mộng hão huyền. Lão nhắc tới hiệp sĩ Tây Ban Nha ngày xưa là Va-gax, giữa trận đánh, gươm bị gãy, đã nhổ cây sồi làm vũ khí tiêu diệt quân Mô-rô, nhờ thế mà trở nên bất tử với biệt hiệu "Hiệp sĩ diệt địch”, làm rạng rỡ cháu con đời đời. Kể lại câu chuyện ấy, Đôn Ki-hô-tê muốn nói lên chí hướng mình muốn theo gương người xưa, cũng sẽ nhổ cây sồi để diệt địch, sẽ lập nên “những chiến công phi thường” mà quan giám mã sẽ là người có diễm phúc được mục kích! Qua đó, ta thấy Đôn Ki-hô-tê vẫn kiêu hùng, tự tin, đầu óc anh ta quá mê muội, khoác lác đến cực độ!
 
Khi giám mã “thật thà” nhắc lại sự thất trận vừa qua, cái ngã chắc hẳn “làm ngài vẹo vọ hẳn đi” thì chàng hiệp sĩ hồn nhiên trả lời: "Đúng thế! Và nếu ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương cũng không được rên rỉ, dù sổ cả ruột ra ngoài”. Đó cũng là một nét rất "anh hùng” của Đôn Ki-hô-tê! Khi Xan-trô tâm sự là nếu có bị gai đâm cũng kêu lên thì ông chủ tài ba đã “không nín được cười”, đĩnh đạc nói với giám mã: “cử việc rên la” vì “cho tới nay chưa thấy sách kiếm hiệp nào ngăn cấm cả.”
 
Phần cuối là chuyện ăn, chuyện ngủ của hai thầy trò chàng hiệp sĩ. Hai thầy trò cùng đi giang hồ, với “lí tưởng” dẹp bất công, cứu nguy phò đời nhưng trong tâm hồn, tính cách là hai thế giới riêng biệt! Đến giờ ăn, Đồn Ki-hô-tê không hiểu vì sao mà “chưa muốn ăn". Còn Xan-trô, sau khi được phép chủ, ngồi thoải mái trên lưng lừa “ăn một cách khoái trá”, nghiêng bầu rượu "tu một hơi ngon lành". Đúng là “dĩ thực vi thiên”, Xan-trô vừa nhắm rượu, quên cả những lời hứa hẹn của chủ phong anh ta làm thống đốc sau này, vừa vui vẻ suy ngẫm về cái nghề đi tìm kiếm chuyến phiêu lưu “ tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Đó cũng là một nét vẽ hài hước về sự '‘"cái miếng ăn gần, cái ước mơ xa' ở đời!
 
Đêm đến, hai thầy trò nằm dưới gốc cây. Giám mã sau khi đánh chén no say "làm một giấc đến sáng". Sáng dậy vừa mở mắt ra đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì bầu rượu đã vơi đi, mà quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy! Trái lại, Đôn Ki-hô-tê thì suốt đêm thao thức. Chàng đã bẻ “một cành khô” lắp vào cán gẫy làm thành một ngọn giáo! Chàng trằn trọc thâu đêm vì thương nhớ tình nương Đuyn-xi-nê-a. Chiều qua đã nhịn, sáng nay lại không ăn, chẳng phải là Đôn Ki-hô-tê bị đau nên không ăn được, mà là chàng đang sống trong mộng mị, vì chỉ "nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi!”
 
Nhân vật giám mã Xan-trô là một nhân vật phụ, một nét vẽ bổ trợ nhưng rất sống động. Một mặt, nó có giá trị làm nổi bật tính cách ngông cuồng, mụ mẫm, ôm ấp những mộng tưởng hão huyền của Đôn Ki-hô-tê về cuộc đời hiệp sĩ, mặt khác thể hiện một quan niệm sống phác thực, hồn nhiên, giản dị… của những người dân quê yêu đời, thiết thực.
 
‘‘Đánh nhau với cối xay gió” là một trang đời, một trong những “chiên công oanh liệt” của Đôn Ki-hô-tê hiệp sĩ xứ Man-tra đã ghi vào sử sách! Xéc-van-tex đã sử dụng thủ pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng cảnh, đã làm hiện lên một trang hiệp sĩ Tây Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời! Đằng sau câu văn, dòng chữ, ta luôn luôn bắt gặp nụ cười hóm hỉnh của Xéc-van-tex. Đàng sau nụ cười chế giễu của nhà văn là sự đề cao trong một chừng mực nhất định tình yêu tự do, bình đẳng, sống thiết thực yêu đời… mang tính nhân văn.
 
Bài làm 3
 
Xéc –van –tét là nhà văn Tây Ban Nha, ông sống một cuộc đời âm thầm vất vả cho đến khi ông cho ra đời bộ tiểu thuyết có tên “Đôn ki hô tê”. Văn bản đánh nhau với cối xay gió được trích trong tiểu thuyết này. Qua đoạn trích ta thấy rõ tài năng trong việc xây dựng cặp nhân vật  bất hủ Đôn ki hô tê và Xan–chô-Pan–xa tương phản về mọi mặt. Bức chân dung của hai nhân vật mỗi lúc được hiện lên một cách rõ nét hơn từ quan niệm hành  động đến những ước mơ và cách nhìn nhận về cuộc sống.
 
Trước tiên nhân vật Đôn ki hô tê là một nhân vật chính xuất thân là một gia đình quý tộc đã đứng tuổi dáng hình gầy gò hốc hác cao lêu khêu như cây gậy. Trang phục của hắn cũng như trang phục của những người hiệp sĩ thời trung cổ khác,cưỡi trên lưng một con ngựa gậy bên hông đeo một thanh gươm cổ và một tấm khiên rỉ. Dường như hắn đã đọc quá nhiều chuyện kiếm hiệp thế nên cách quan sát và nhận diện của hắn có phần hơi ảo tưởng hắn đã tưởng những chiếc cối xay gió chính là những kẻ khổng lồ và hắn còn cho rằng đây là vận may đến với hắn. Hắn mang mộng sẽ quét tất cả những gã này khỏi trái đất sẽ đánh cho chúng một trận tơi tả. Qua đó ta thấy được hình tượng nhân vật hiện lên bước đầu khá ấn tượng về một anh chàng không mấy thông minh và có phần hơi ngớ ngẩn. Từ đó ta thấy được cách kể chuyện của tác giả cũng mang rất nhiều tính hài hước nhưng vẫn khiến cho người đọc hồi hộp chờ xem kết quả của trận đấu sẽ thảm hại như thế nào. Và kết quả cũng đúng như dự đoán của chúng ta đó là chiếc giáo gãy tan tành kéo theo cả người và ngựa ngã văng ra xa. Đôn ki hô tê nằm yên không cựa quậy con ngựa thì cũng thảm hại không kém khi nó bị chủ nhân làm cho bị toạc cả nửa vai. Hành động của hắn cũng rất dũng cảm kiên cường đại diện cho những hiệp sĩ thòi bấy giờ nhưng cũng thật đáng tiếc cho hắn khi kẻ thù chỉ là một tên được hắn hoang tưởng ra. Đến khi thất bại hắn vẫn không nhận ra sự thật mà còn cho rằng đó chỉ là chuyện chinh chiến biến hóa khôn lường mà thôi. Qua đó ta cũng thấy được hắn có một tâm hồn cũng rất lạc quan. Bên cạnh vẻ ngoài và trí tuệ có phần hơi ngớ ngẩn thế nhưng hắn lại có một tâm hồn rất trong sáng và chung thủy khi hắn bẻ một cành khô rút chiếc mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo và thức suốt đêm không ngủ để nghĩ đến nàng Đuyn-xi nê-a. Tóm lại hình tượng nhân vật chính hiện lên là một người mê muội hoang tưởng không bình thường điên rồ hài hước buồn cười. Tuy vậy ở chàng vẫn hiện lên những phẩm chất rất tốt đẹp như sự tự lòng dũng cảm có thể đánh được quân giặc không sợ hiểm nguy và coi khinh cái tầm thường cái thực dụng từ hành động khi bị thương đau nhưng vẫn không kêu đau không rên rỉ và không lấy việc ăn uống là mấy thích thú. Tình yêu của hắn đối với nàng Đuyn-xi ne-a cũng khiến chúng ta cảm thấy thật ngưỡng mộ khi hắn thức suốt đêm  để cầu nguyện cho nàng được cứu giúp mỗi khi hiểm nguy và chỉ cần nghĩ đến người yêu cũng đủ để hắn cảm thấy no rồi. Tình yêu của hắn vừa khiếm cho chúng ta chê cười vừa đáng để chúng  ta cảm phục về tấm lòng thủy chung thành tâm đối với người mình yêu thương.
 
Đối nghịch hoàn toàn đối với nhân vật đôn ki hô tê chính là nhân vật Xan chô Pan xa là một gã nông dân lùn và mập trang phục của hắn cũng rất hài hước khi hắn cưỡi một con lừa khiến cho hắn càng lùn hơn. Hắn là một con người sống rất thực tế vừa ngây thơ thật thà nhưng cũng rất ranh mãnh.
 
Hắn ra đi với Đôn ki hô tê không phải là vì khát vọng nào đó mà chính là vì danh lợi hy vọng lên được chức tổng trấn trên một hòn đảo và sống một cuộc đời giàu sang phú quý. Khi trông thấy cối xay gió hắn rất tỉnh táo khi nhận ra rằng đó chẳng phải là một người khổng lồ nào cả mà chính là những chiếc cối xay gió và khi có gió những cánh tay kia sẽ quay mà thôi. Thế nhưng khi đã nhận ra hắn lại không can ngăn ông chủ của mình mà lại để cho chủ đi đánh khi biết trước kết quả sẽ như thế nào. Khi nhận thấy ông chủ đã ngã ngựa thì hắn chạy ngay đến để đỡ Đôn ki hô tê lên ngựa thế nhưng không ngừng chê cười đầu óc ông chủ cũng chỉ quay cuồng như những chiếc cối xay đó mà thôi. Hắn cũng nhận rằng chỉ bị hơi đau một chút là hắn sẽ rên rỉ ngay lập tức. Bên cạnh đó chúng ta còn nhận thấy rằng hắn là một tay rất háu ăn ngủ Bằng ngòi bút sinh động, hóm hỉnh, Xéc-van-téc đã khắc họa nhân vật giám mã Xan-chô với những nét ngoại hình và tính cách trái ngược hẳn với Đôn Ki-hô-tê.
 
Đánh nhau với cối xay gió là một cuộc phiêu lưu, một trận đánh kì quặc. Chúng ta thấy Đôn Ki-hô-tê thật nực cười, nhưng cũng đáng yêu, còn Xan-chô Pan-xa tuy có những mặt tốt đáng quí, nhưng cũng còn có nét tính cách chưa tốt, đáng chê. Như vậy, hai nhân vật này tuy rất trái ngược nhau cả về hình dáng và tính cách nhưng vẫn là đôi tri kỷ thân thiết. Hai bên đã chịu ảnh hưởng của nhau rất sâu sắc. Thật là một cặp nhân vật bất hủ trong văn chương thời Trung cổ.
 
Bài làm 4
 
Tính đến những năm đầu thế kỉ XXI này, cuốn tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê của nhà vãn vĩ đại nước Tây Ban Nha Xéc-van-tét (1547 – 1616) đã sống trên ba trăm năm và chắc còn sống lâu hơn nữa.. Bởi vì, qua tác phẩm của mình, Xéc-van-tét đã phản ánh và đặt ra những vấn đề lớn lao của một giai đoạn biến đổi quan trọng của lịch sử nước Tây Ban Nha và nhiều nước trên thế giới: chuyển tiếp từ xã hội phong kiến trung cổ lạc hậu sang xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển về mọi mặt.
 
Đọc Đôn Ki-hô-tê, người đọc hiểu rõ: "Tác giả chế giễu tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, phê phán chế độ phong kiến… phê phán chế độ tư bản thời kì tích luỹ ban đầu… Mặc dù lỗi thời, gàn dở, hình tượng Đôn Ki-hô-tê vẫn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc: yêu quý tự do, bình đẳng, ghét thói xa hoa, ăn bám, trọng danh dự, đạo nghĩa”. Qua những dòng vãn rất sinh động, hóm hỉnh, trào lộng mà thâm thuý, Xéc-van-tét đưa chúng ta phiêu lưu hàng vạn dạm trên khắp nước Tây Ban Nha thơ mộng, chứng kiến nhiều việc làm vừa hào hiệp vừa gàn dở, khám phá được nhiều ý nghĩ lúc cao thượng, khi thấp hèn của hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê và giám mã Xan-chô Pan-xa. Một trong những việc làm, cũng là một cuộc phiêu lưu của họ là việc Đôn Ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió, một trận đánh kì quặc làm nổi bật lên tính cách của cả hai người. Đi vào đoạn trích trong sách Ngữ văn 8, chúng ta có thể hình dung câu chuyện gồm ba phần với năm sự việc tiêu biểu. Mỗi phần mang một cái tên cụ thể, chẳng hạn như sau: Phần một (từ đầu đến: "… và không cân sức"), có thể mang tên "Những cối xay gió hay là những tên khổng lồ ghê gớm". Phần này có sự việc: Thầy trò nhà hiệp sĩ tranh cãi, nhận định về kẻ thù. Phần hai (từ câu: "Nói rồi, Đôn Ki-hô-tê thúc con ngựa…" đến "… bị toạc nửa vai"), có thể mang tên "Một trận giao chiến không cân sức". Phần này gồm hai sự việc. Một là: Đôn Ki-hô-tê thất bại, giáo gãy, người và ngựa ngã văng ra. Hai là: thầy trò hiệp sĩ dìu nhau đứng dậy trong hai tâm trạng khác nhau.
 
Phần cuối (đoạn còn lại), có tên là "Tiếp tục cuộc phiêu lưu". Phẩn này cũng gồm hai sự việc. Một là: Xan-chô ăn uống no say, trong khi Đôn Ki-hô-tê vẫn thản nhiên dẫn bước. Hai là: Đôn Ki-hô-tê trằn trọc không ngủ, còn Xan-chô đánh một giấc ngon lành. Từ dòng đầu cho đến chữ cuối của đoạn tiểu thuyết, nhất là qua năm sự việc chính nói trên, chân dung hai nhân vật – nhà hiệp sĩ xứ Man-cha Đôn Ki-hô-tê và bác giám mã Xan-chô Pan-xa – hiện lên mỏi lúc một rõ nét, rất cụ thể, sinh động, từ ngoại hình, trí tuệ, ước muốn đến hành động và quan niệm về cuộc sống. Chúng ta hãy lần lượt quan sát và suy ngẫm về từng người. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê: Chúng ta có thể gọi nhân vật này kèm theo các đại từ "ngài hiệp sĩ", "nhà hiệp sĩ", "lão hiệp sĩ", hoặc "chàng hiệp sĩ",… bởi vì Đôn Ki-hô-tê hiện lên lúc thật trang nghiêm, dáng kính, khi lại gàn dở, đáng cười, vừa già nua, lại vừa trai trẻ. Đọc tác phẩm và đoạn trích này, chúng ta hình dung một chàng hiệp sĩ tuổi trạc năm mươi, gầy gò, cao lênh khênh. Cưỡi trên lưng con ngựa còm có cái tên mĩ miều Rô-xi-nan-tê, minh mặc áo giáp, đầu đội mũ sắt, vai vác giáo dài, toàn những thứ han rỉ của tổ tiên để lại, rồi đem đánh bóng,… Đôn Ki-hô-tê hiên ngang tiến bước với mục đích tốt đẹp là tiễu trừ quân gian ác, giúp đỡ người lương thiện. Trí óc Đôn Ki-hô-tê đầy hoang tưởng, có lúc mê muội. Nhìn thấy những chiếc cối xay gió, lão nghĩ là bọn khổng lồ gian ác, sau đó cho rằng dấy là phép thuật của phù thuỷ Phơ-re-xtôn. Với động cơ trong sáng, hồn nhiên – tiêu diệt lũ tàn ác, trừ hại cho dân – Đôn Ki-hô-tê đã dũng cảm xống vào đánh "lũ quỷ khổng lồ" (thực ra là những chiếc cối xay gió), mặc dù chàng biết rằng đây là "cuộc giao tranh điên cuồng và không cân sức". Đơn thương độc mã, hiệp sĩ bỏ mặc lời can ngãn của Xan-chô, phóng ngựa, vừa quát mắng lũ quỷ khổng lồ, vừa tâm niệm nguyện cầu người tình lí tưởng – nàng Đuyn-xi-nê-a xinh đẹp – giúp minh trong lúc nguy nan. Trong giây phút tiến công kẻ thù ấy, hình ảnh chàng hiệp sĩ sáng chói lên, đẹp như một anh hùng, rất đáng kính phục. Nhưng, suy nghĩ tỉnh táo một chút, người đọc lại bật cười. Bởi vì mục đích và hành động của Đôn Ki-hô-tê là đúng đắn, tốt đẹp, nhưng đối tượng hướng tới của chàng lại không phải là lũ quỷ khổng lồ gian ác mà chỉ là những chiếc cối xay gió hiền lành vỏ tội. Bởi vì đầu óc chàng đầy những hoang tưởng. Cho nên cái động cơ tốt đẹp, cái hành động dũng cảm kia của Đôn Ki-hỏ-tê trở thành hão huyền, mang tính phá phách. Còn bản thân hiệp sĩ thì thất bại một cách đau đớn, "ngọn giáo gãy tan tành, người và ngựa ngã vãng ra". Nhìn thấy hình ảnh Đôn Ki-hô-tê "nằm không cựa quậy", bác giám mã sợ quá và chắc cũng thương quá, đã phải "lạy Chúa", kêu trời. Còn chúng ta, đọc dến chi tiết này, cũng vừa thương vừa… khống nén được tiếng cười. Song, xin bạn đọc chớ đùa cợt. Trong thời khắc nguy nan sau cuộc chiến đấu, thầy trò chàng hiệp sĩ lại tiếp tục tranh cãi một cách rất nghiêm chinh. Nghe Xan-chô có ý phê mình là "đầu óc quay cuồng như cối xay gió", hiệp sĩ mắng lại: "Thôi im đi! Chuyện chinh chiến thường biến hoá khôn lường… Ta cho rằng chính lão pháp sư Phơ-re-xtôn biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng… nhưng rồi lão sẽ không thể nào đối chọi được thanh kiếm lợi hại của ta". Ý nghĩ và những lời lập luận của hiệp sĩ kể ra cũng sáng suốt và chặt chẽ đấy chứ! Bị quật ngã đau dến lịm người như thế mà không một tiếng rên rỉ, xuýt xoa, trái lại vẫn cháy bỏng rnột niềm tin, một quyết tâm hành động vì nghĩa lớn. Một bản lĩnh làm người như thế đáng khâm phục biết bao! Chỉ có điều, cái bản lĩnh làm người ấy của Đôn Ki-hô-tê không bắt nguồn từ thực tế cuộc sống mà nó từ trong những cuốn sách hiệp sĩ cổ xưa mà lão đã ngốn ngấu dọc, rồi làm theo. Do đó, sau trận chiến thất bại ê chề, Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa chịu tỉnh táo để rút ra bài học. Trái lại, lão vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu, tiếp tục nhông suy nghĩ lãng mạn, hoang tưởng. Lão tâm sự với Xan-chô: "Ta không kêu đau vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương thế nào cũng không được rên rỉ, dù xổ cả gan ruột ra ngoài". Thế là tấm gương những hiệp sĩ trong sách vở sống dậy, giục giã, khích lệ lão. Trong khi giám mã Xan-chô ăn uống thì ngài hiệp sĩ "thấy chưa cần ăn", vì… hình như đang mải nghĩ tới những cuộc chiến đấu sắp tới. Cho tới đêm hôm ấy, chúng ta cũng không thấy hiệp sĩ ăn uống gì. Ngài bẻ một cành cây khô "rút cái mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo". Đôn Ki-hô-tê không ngủ để dành thời gian nghĩ tới nàng Đuyn-xi-nê-a, đúng như hiệp sĩ trong sách, thức trắng nhiều đêm ròng ở trong rừng hoặc nơi hoang mạc nhớ tới tình nương của minh. Suy nghĩ và mộng mơ bay bổng đến nỗi, Đôn Ki-hô-tê không thèm để ý tới giám mã Xan-chô đang đánh một giấc ngon lành. Cho

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top