Bài làm 1
Truyện thơ Lục Văn Tiên gồm 2082 câu lục bát của do nhà nho mù loà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác có vị trí cao trong nền vãn học Nam Bộ nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung. Đoạn trích Lục Vân cứu Kiều Nguyệt Nga để lại nhiều ấn tượng đẹp bởi hình ảnh Lục Vân Tiên – người anh hùng chiến đấu vì nghĩa, văn võ song toàn.
Đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mầu người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và nghĩa hiệp.
Bản tính anh hùng nghĩa hiệp là đức tính tốt đẹp nhất của Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng hăm hở xuống núi về kinh đô ứng thí. Trên lộ trình gian nan ấy, chàng bất ngờ gặp cảnh dân dắt díu nhau chạy loạn, kêu khóc thảm thương, chàng hứa:
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao dao buổi này.
Căm giận lũ bất lương, Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chứng. Chàng đứng về phía nhân dân, phía người bị nạn, bẻ cây làm gậy xông thẳng vào bọn cướp Phong Lai hung dữ:
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
Đạo lí “thương người như thề thương thân”, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí. Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phả vòng Đương Dang.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chí bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệụ Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vòng vây của quân Tào bảo vệ ấu chúa. Việc sử dụng điển tích, so sánh Lục Vân Tiên với Triệu Tử Long khiến cho câu thơ trở nên hàm súc, phát huy được lối nói khoa trương, tôn vinh phẩm chất nhân vật cũng ngang bằng với người anh hùng nổi tiếng thời Tam quốc. Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng. Cuộc chiến của chàng giông hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện vì thế no có sức mạnh vô địch:
Lâu la bốn phía võ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lí: kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng. Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người vị nghĩa vong thẩn, cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực tàn bạo.
Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rờ… Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo. Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kì ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động. Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “Vân Tiên nghe nói liền cười” – nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp. Chàng cười bơi chàng quan niệm:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rô đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn Làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói cúa chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng. Đằng sau những lời giản dị ấy là một quan niệm nhân sinh vô cùng sâu sắc, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sông có văn hoá, đang theo đòi kinh sứ, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vi lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa đế khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sông của mình. Đó là lẽ sông của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp cúa các bậc anh hùng hảo hán. Lời nói và nhân cách của chàng giống người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều với quan niệm:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha.
(Nguyễn Du)
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sông và hành động theo phương châm: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ”. Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng. Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lí của dân tộc ta.
Bằng giọng thơ phóng khoáng, mộc mạc và ngôn từ bình dị, đoạn trích đả xây dựng thành công hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Đó cũng là lí do cắt nghĩa vì sao Lục Vân Tiên được nhân dân Nam Bộ yêu thích, đi vào đời sông hàng ngày, thành sinh hoạt văn hoá tinh thần nói thơ, hát thơ Vân Tiên! Bởi thế, dẫu các nhân vật không được khắc họa một cách đa diện như nhân vật trong Truyện Kiều, nhưng tính đơn nhất ở các nhân vật cũng góp phần tô đậm hơn xung đột Thiện – Ác, cuộc đấu tranh cho lẽ phải chiến thắng, nêu gương sáng về nhân nghĩa. Đọc Lục Vân Tiên ta càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lí mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
Bài làm 2
Được coi là “ truyện Kiều” của nhân dân Nam Bộ, “ Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm thơ Nôm nhiều người biết đến của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Trong đó, Lục Vân Tiên là hình tượng tuyệt đẹp được khắc họa thông qua mô típ quen thuộc ở truyện thơ Nôm truyền thống:
chàng trai tài giỏi cứu cô gái xinh đẹp, rồi từ ân nghĩa đến tình yêu, hôn nhân… Nhà văn rất mực yêu mến, dành nhiều tâm huyết để xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên để ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp cứu khốn phò nguy, đồng thời thể hiện khát vọng công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời.
Chân dung của Lục Vân Tiên có thể thấy rõ qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
Lục Vân Tiên hiện lên trước hết là người anh hùng có tài năng, có tấm lòng vị nghĩa. Phẩm chất anh hùng được thể hiện qua hành động trượng nghĩa khi gặp phải chuyện bất bình:
“ Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm đàng xông vô”
Khi thấy có người gặp nạn, Lục Vân Tiên đã không nề hà, so sánh thiệt hơn mà đã “ nhằm làng xông vô”.
Các động từ như “ghé”, “bẻ”, “nhằm”, “xông” được sử dụng liên tiếp trong hai câu thơ đã góp phần diễn tả cái dứt khoát của động tác, cái khẩn trương, gấp gáp của tình thế.
Vừa tìm đánh bọn cướp, Lục Vân Tiên vừa la mắng: “ bớ đảng hung đồ- Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân” Lời lẽ của Lục Vân Tiên như lời tuyên chiến không khoan nhượng với cái ác, đồng thời thể hiện rõ tính chính nghĩa, vì dân của hành động chàng đang thực hiện.
Qua đó ta thấy tinh thần xả thân vì nghĩa của chàng. Nếu Đôn-ki hô-tê vì lòng nhân từ mà nghênh chiến với cối xay gió thì Vân Tiên chiến đấu với bọn cướp bằng sức mạnh, võ nghệ của người anh hùng.
“ Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Đang”
Hình ảnh Vân Tiên trong trận quyết đấu được so sánh với dũng tướng lừng danh Triệu Tử Long thời Tam quốc để làm nổi bật lên khí phách của người anh hùng Lục Vân Tiên.
Thành ngữ “tả đột, hữu xung” vừa diễn tả hành động mạnh, nhanh, dứt khoát, biến hóa khi bên phải, lúc bên trái, làm chủ tình thế trong cuộc chiến.
Sức mạnh của Vân Tiên khiến cho đầu đảng Phong lai “ trở chẳng kịp tay”, “ Bị Tiên một gạy thác rày thân vong”, còn lâu la bốn phía thì “ đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”.
Trận đánh kết thúc nhanh, gọn, bất ngờ, thắng lợi ngoạn mục, giòn giã như trong truyện cổ tích. Người đọc chưa kịp hồ ộp thì toán cướp đã bị đánh cho tan giã.
Không chỉ là người tài năng, có tấm lòng vị nghĩa Lục Vân Tiên còn là con người từ tâm, nhân hậu: chính trực, hào hệp, khuôn phép, mẫu mực.
Sau khi đánh cướp, Vân Tiên chưa vội bỏ đi. Nghe tiếng khóc than vọng ra từ bên trong xe, chàng động lòng trắc ẩn. Nguyễn Đình Chiểu khi đó sử dụng triệt để hình thức hỏi- đáp để nhân vật bày tỏ tình cảm, suy nghĩ, quan niệm,đạo đức, tính cách và lối sống.
“ Hỏi ai than khóc ở trong xe này”
Ngôn ngữ, nói năng của Vân Tiên hết mực từ tốn, giản dị, giọng điệu ân cần, nồng hậu.
Để người bị hại nhanh chóng hồi tâm,chàng đã hỏi thăm ngọn nguồn:
“Tiểu thư con gái nhà ai
Đi đâu đến nỗi mang tai bất kì”
Những lời động viên,an ủ, hỏi han ấy nói với chúng ta về tấm lòng chàng từ tâm,nhân hậu. Không xuất phát từ khát khao lập công danh như những nhà Nho thuở trước, hành động đánh cướp cứu Nguyệt Nga của Vân Tiên khởi sinh từ lòng yêu thương. Lòng yêu thương con người quả là thứ tình cảm đẹp, cội nguồn, gố rễ của bao nhiêu tình cảm cao quý khác.
Được cứu gúp,Nguyệt Nga và Kim Liên quá đỗi cảm động. Hai nàng tỏ ý “ cúi đầu trăm lạy” tạ ơn chàng đã cứu mạng. Vốn là kẻ sĩ, coi trọng lễ giáo “ nam nữ thụ thụ bất thân”, Vân Tiên gạt đi:
“ Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Ứng xử tế nhị đó một phần cho thấy lối sống khuôn phép, mẫu mực, nề nếp phần khác thể hiện đức tính khiêm nhường: “ Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Chàng trước sau kiên định với quan niệm người anh hùng thấy việc nghĩa thì không thể không làm. Quan niệm ấy được hàm súc trong câu thơ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Vân Tiên hiện lên trong đoạn trích là một người anh hùng, nghãi khí, có học thức, chính trực, khuôn phép, nhân hậu, trọng ân nghĩa.
Như vậy, Vân Tiên trở thành hình tượng tuyệt đẹp về người anh hùng, góp phần làm nên giá trị nhân đạo của “ Truyện Lục Vân Tiên” được nhiều người yêu thích.