Trang chủ » Phân tích hình tượng người đàn bà trong Đò Lèn của Nguyễn Duy

Phân tích hình tượng người đàn bà trong Đò Lèn của Nguyễn Duy

BÀI LÀM 1

Tình cảm gia đình luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng nhất, vì chỉ có gia đình mới là người bên ta dù cho khó khăn hay sung sướng mà thôi. Có biết bao nhiêu thứ tình cảm đi qua đời một con người như tình bạn, tình yêu, tình bằng hữu… nhưng duy nhất chỉ có tình cảm gia đình là bền vững nhất. Trong tình cảm lớn ấy chúng ta không chỉ biết đến công cha nghĩa mẹ mà còn biết đến sự yêu thương chăm sóc của bà. Người bà đã biết bao nhiêu lần trở thành đề tài văn học tiêu biểu trong những bài thơ bài văn nói về bà ấy có thẻ nhắc đến hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy. Qua tác phẩm này ta thấy những vẻ đẹp của người bà hiện lên một cách rõ ràng và nó tiêu biểu cho hình tượng những người bà trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trước hết người bà còn hiện lên với vẻ đẹp của một người yêu thương cháu hết mực. bà tham gia những lễ đền lễ chúa chính vì thế mà tác giả Nguyễn Du ngay từ bé đã quen với những nơi như chùa Trần, Phật Tổ:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Hay đó chính là tín ngưỡng tôn đạo Phật mà  nhân dân ta. Qua những vần thơ kể về tuổi thơ của Nguyễn Duy ta thấy được hình ảnh người bà ấy có cái tâm thật tĩnh và hướng thiện. Vì chỉ có hướng thiện thì bà mới hay đi chùa như thế. Và cũng chính vì hay đi chùa cho nên Nguyễn Duy mới có những trò chơi gắn liền với hình ảnh chùa chiền đến vậy. Lớn lên bên bà nên Nguyễn Duy cũng sớm quen cái mùi hương trầm. đó là nhưng hương thơm tạo nên không khí thiêng liêng kính cẩn của chùa phật.

Không những thế người bà ấy còn là một người rất thương yêu cháu mình, bà đi đâu thì nhà thơ cũng theo tới đó:

“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”

Nhà thơ không chỉ quen với hương trầm huệ trắng mà còn quen cả những bóng cô đồng lảo đảo hát chầu văn. Và hình ảnh rất đồi giản dị mà gợi lên tất cả những gì của đơn sơ nghèo mà đời sống tâm hồn thì phong phú đó là hình ảnh tác giả đi chân đất đi chợ đền Sòng với bà.

Hình tượng người bà còn hiện lên thật hay qua những công việc của bà. đó chính là sự khổ cực và đức hi sinh cao cả của bà trong những năm tháng kháng chiến chống mỹ đầy ác liệt. Bà chọn cho mình công việc cả ngày cả đêm. Đó không chỉ là một công việc mà đó là rất nhiều công việc. Qua những công việc đó ta thấy được sự cơ cực của người bà. Sáng ra bà mò cua xúc tép, rồi đi gánh chè xanh Ba Trại. Tối đến bà lại đi Quán Cháo, Đồng Giao. Đó chính là những nét đẹp hi sinh vất vả đẹp đẽ của bà:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”

và chính vì thế mà trong mắt nhà thơ bà hiện lên không khác gì với những thánh thần kia cả. Bà đẹp cái vẻ đẹp hiền hậu, nhân hậu, lương thiện và giàu đức hi sinh giống như những ông Phật Tổ kia ban phước cho đời thì bà chính là ngươi ban phước mang niềm hạnh phúc đến cho cuộc đời của cháu.

Hình tượng người bà hiện lên với sự kiên cường của những bà mẹ Việt Nam anh hùng:

“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”

dù cho biết bao nhiêu bom đạn rơi xuống, nhà của bà mất, đời sống tâm linh của bà cũng bay tuốt nhưng mà vẫn không lùi bước. Bà vẫn kiên cường chống lại thứ vu khí hủy diệt kia bằng cách sống theo một nghề khác. Cuộc sống nghèo khổ và đau thương không làm cho bà mệt mỏi và ngã quỵ mà còn khiến cho bà kiên cường hơn. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống của mình. và đến khi mất đi rồi bà vẫn còn ở tâm trí người cháu Nguyễn Duy cậu bé hồn nhiên hồi nào.

Có thể nói hình tượng người bà trong bài thơ này đại diện cho những vẻ đẹp của người mẹ anh hùng Việt Nam. Những người mẹ đó tuy đã già nhưng vẫn rất kiên cường chống lại bom đạn và sự tàn ác của kẻ thù. Bà không ngại khó khăn để mang đến một cuộc sống cho cháu, để những người cháu ấy lớn lên và cầm vững tay súng để bảo vệ chủ quyền cho đất nước cũng như để giữ yên nấm cỏ khô kia khỏi bom đạn chiến tranh.

BÀI LÀM 2

Hình ảnh người bà là một đề tài chưa bao giờ cũ trong nền văn học Việt Nam. Nếu Bằng Việt có hình ảnh người bà hiện lên bếp lửa ấp ưu nồng đượm, thì ở Nguyễn Duy ta lại nhìn thấy hình ảnh của người bà sớm hôm tảo tần với những buôn bán ngược xuôi vất vả. Đấy chính là hình ảnh người bà trong bài thơ đò lèn

Mở đầu bài thơ Đò Lèn tác giả còn vẽ lên trước mắt người đọc hình dáng một cậu bé tinh nghịch với những thú chơi của trẻ nhỏ:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Cậu bé ấy chính là nhà thơ Nguyễn Duy, hình ảnh nhà thơ hồi bé hiện lên thật nghộ nghĩnh khi bắt cá, khi níu áy bà đi chợ. Không những thế trong tâm tưởng của cậu bé ấy còn không biết đên sự uy nghiêm của nơi Phật tại vậy nên với dẫn đến những trò chơi mà không sợ bị đức Phật quở trách. Đó chính là hành động bắt chim sẻ trên vành tai Phật Tổ và ăn trộm nhãn chùa Trần. chính sự ngây thơ đã cho cậu bé Nguyễn Duy của chúng ta không biết sợ và qua đó ta thấy Nguyễn Duy có một tuổi thơ giống như những cậu bé thôn quê, nghịch ngợm thật đấy nhưng đối với trẻ con quê thì hành động vặt trộm nhãn chùa Trần không phải xấu xa như cái tên ăn trộm mà cơ bản đó chỉ là một trò nghịch ngợm của trẻ con làng quê.

Hình ảnh của cậu bé Duy tinh nghịch khi đi lễ phật với bà. Cậu hiếu động nghịch ngợm và cậu vẫn rất còn bé để hiểu rõ sự tôn nghiêm nơi cửa Phật:

“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”

Đó là những kí ức đẹp của nhà thơ với người bà của mình, cái tuổi thơ ấy êm đềm hơn khi có bà bên cạnh. Bà đi đâu cũng mang theo nhà thơ theo, chính vì thế có thể nói rằng tuổi thơ của nhà thơ gắn chặt với hình ảnh người bà. Nếu nhà thơ Bằng Việt có tuổi thơ gắn liền với bà và những hình ảnh thân thương của bếp lửa thì Nguyễn Duy lại có những kỉ niệm thật đẹp bên bà và những lần cùng bà đi lễ phật đi chợ chơi. Đó là những khoảnh khắc vô cùng đáng nhớ tuổi cậu còn nhỏ quá, nhỏ đến mức cậu vẫn đi chân đất đi xem lễ Đền Sòng. Có thể thấy tuổi thơ không gắn chặt với những hình ảnh cánh đồng thơm mát, những cánh diều mơ ước được thả trên nền trời xanh kia mà đó chính là những khoảnh khắc nghịch ngợm của cậu bé ấy ở những lễ đền và chùa. Cậu nghịch ngợm trên không gian uy nghi ấy và nghịch trong chính những hương thơm của hương trầm. Và một điệu hát văn với hình dáng lảo đảo của cô đồng đã mang ghi dấu trong tâm trí non nớt của cậu bé ấy.

Và chính sự ngây thơ ấy đã làm cho cậu bé chưa hiểu được sự cơ cực vất vả của bà. Ngay đến cả sự uy nghi của cửa Phật cậu còn không biết huống chi những nỗi vất vả của bà. Như thế mới nói trẻ em tâm hồn chúng như những tờ giấy trắng vậy, sự trong sáng ngây thơ của chúng lại trở thành sự vô tâm với những người thân yêu của mình. Nhưng điều đó chỉ xét trong trường hợp khi sau này chính những đứa trẻ ấy ngẫm lại chứ không phải là trách chúng vì vốn dĩ như thế mới được gọi là một đứa trẻ:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Tác giả nói “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” như một lời trần thuật nói về những gì mà bà đã phải trải qua nhưng tâm hồn của nhà thơ lúc đó không thể hiểu được vất vả cơ cực là gì. Tâm hồn ấy chỉ dành cho những thú vui những trò chơi mà thôi. Bà không những phải mò cua bắt tép mà bà còn phải gánh chè xanh đi bán nữa. Có thể nói ở cái tuổi của bà mà lại phải vất vả cơ cực như thế. Đến bây giờ nhà thơ nghĩ lại bỗng như nhận ra những gì thơ ơ của mình. Những địa danh kia được nêu tên thật cụ thể như chứng nhân công nhận cho những hi sinh vất vả của bà vì đứa cháu yêu. Bà không chỉ làm ngày mà còn làm đêm nữa, những đêm lạnh bà cũng đi Quán Cháo, Đồng Giao. Có thể nói hai chữ “thập thững” đã lột tả tất cả những sự khó khăn và nguy hiểm đối với tuổi tác cũng như sự già yếu của bà. Thế nhưng ngày nào cũng như ngày nào bà làm công việc ấy để vì đứa cháu yêu.

Tuổi thơ của Nguyễn Duy còn phải trải qua những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chính cái tuổi thơ ấy đã thấm thía những gì là nghèo đói trong Nguyễn Duy. Hình ảnh củ rong giếng luộc sượng đã cho thấy sự nghèo đói về khắp đất nước. Thế nhưng người bà tần tảo kia không chỉ là một người bà mà còn giống như một người cha, người mẹ vẫn ngày đêm cực khổ kiếm từng đồng một để nuôi cậu bé Nguyễn Duy. Chính vì thế mà nhà thơ không phân biệt được người bà của mình với nhưng nhân vật siêu nhiên kia. Bà giống như tiên như phật vậy:

“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần

cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”

Thế rồi không những cảnh đói mà tuổi thơ bên người bà kính yêu ấy của nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng vô cùng ác liệt với bom đạn của chiến tranh:

“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”

Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà của mình. Hình ảnh nhà bà bay cũng như những đến Sòng, chùa chiền bay, thánh với phật rủ nhau đi đâu hết đã lột tả hết sự gian ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ấy. Bà lại phải đổi nghề khác đó chính là bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh kia như nói lên được sự khủng khiếp của chiến tranh nó không chỉ phá mất nhà của hai bà cháu mà ngay cả chỗ linh thiêng như chùa chiền cũng bị bom đạn làm cho biến mất tàn trụi.

Và giờ đây khi người cháu ấy đã lớn khôn hiểu ra những nỗi vất vả cơ cực của bà thì đã quá muộn bà đã ra đi và đến bên thế giới bên kia. Nhưng sự ra đi của bà không làm cho bà mất đi trên cõi đời này vì bà luôn còn sống mai trong chính tâm tưởng tình cảm của người cháu thân yêu:

“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

khi tôi biết thương bà thì đã muộn

bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

Dù cho tác giả đã đi lính nhưng thời gian thì cứ trôi dòng sông thì vẫn ngày đêm bên lở bên bồi, và bà ngoại thì cũng cứ già thế nên khi tác giả nhận ra những tình cảm và sự cơ cực của bà thì đã quá muộn. bây giờ bà chỉ còn một nấm cỏ khô mà thôi.

Kết lại bài thơ Đò Lèn là một nỗi buồn, nỗi nhớ thương hoài cổ. Hình ảnh người bà tảo tần với những buôn bán ngược xuôi, với những lo toan trong cuộc sống, với tình yêu thương vô bờ dành cho cháu sẽ vẫn mãi luôn in sâu trong tâm trí người đọc. Bà về với đất, “chỉ còn là một nấm cỏ thôi” nhưng hình bóng bà vẫn mãi còn đó, mãi dõi theo cháu trong suốt cả cuộc đời.

BÀI LÀM 3

Tuổi thơ và hồi ức dường như là một niềm xúc cảm đau đáu trong thơ Nguyễn Duy. Trong bài thơ “ánh trăng” ngày chiến thắng trở về thành thị, nhanh chóng thích nghi với cuộc sống đầy đủ tiện nghi vô tình lãng quên quá khứ gian khổ và nghĩa tình như một hình ảnh, một khoảnh khắc bất chợt của ánh trăng soi sáng khi thành phố mất điện đã bật thức trong anh bao nỗi niềm, bắt đầu là kí ức trong veo của đứa trẻ đồng quê lớn lên với thiên nhiên phóng khoáng và tiếc lại niềm xám hối chân thành còn quá khứ. Còn ở đây kí ức của một thời tuổi nhỏ được tái hiên qua một anh bộ đội khi đã trưởng thành, nghĩ về người bà đã mất của mình, tuổi nhỏ ấy được tái hiện chân thật và xúc động bởi nó chạm đến hồi ức và quan niệm một thời của hầu như hết thảy mọi người. lòng yêu thương những người ruột thịt bao giờ cũng là thước đo quan trọng nhất cho lòng nhân ái của con người.

 

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Kí ức hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ, rất sống động, rưng rưng cảm xúc, vừa riêng tư, vừa gần gũi với mọi người. một cậu bé sống ở làng quê, cuộc sống ấy nhiều mơ mộng và bình yên qua cảm nhận của cậu nhưng nó lại rất giản dị và đẹp đẽ. Cậu say mê những trò chơi con trẻ: bắt chim, níu váy bà đi chợ, trốn tìm, chỉ với 4 câu thơ nhỏ mà đong đầy kỉ niệm của một thời hồn nhiên, tinh nghịch và ngây thơ. Hình ảnh cậu bé quê vừa có nét gì rất riêng trong hoàn cảnh của nhà thơ vừa khiến người đọc thương mến bởi sự hồn nhiên, ngồ ngộ của cấu bé, đặc biệt câu mê nhân vật thánh thần như chơi đền cây thị,…ấn tượng sâu đậm nhất của cậu là hương trầm, hương huệ.

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.”

Những địa danh được nhắc tới trong bài thơ: “Đò Lèn, đồng Quan, chè xanh Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao”. Tưởng chỉ là phép liệt kê đơn giản những miền đất quê hương Thanh Hóa nhưng nhà thơ đã thổi hồn cho nó, khiến hình ảnh thân thương của quê hương hiện lên mang theo biết bao tình quê và hoài niệm, “đi vào cái nhỏ nhoi đời thường mà mang lại cái cao quý”. Kí ức chính là một điều kiện để thấu hiểu và gắn bó, các địa danh được nhắc tới với mật độ dày đặc, nơi nào cũng in dấu những kí ức của tuổi thơ.

Kí ức cũng mang hình bóng người bà đó chính là sợi dây nối quá khứ với hiện, nối những con người hôm nay với những người đã khuất, nối cả cá nhân với cội rễ. Có thể nói đó là sự gợi nhắc nhỏ nhẹ và thấm thía. Trong cảm hứng về cội nguồn, trong nỗi niềm thương nhớ thì có thể nói đây chính là nét đẹp trong cảm xúc thơ Nguyễn Duy:

“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

giữa bà tôi và tiên phật thánh thần

cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.

Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi

khi tôi biết thương bà thì đã muộn

bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

Dù nói về đề tài gì trong cách nhìn mới mẻ của nhà thơ về chính mình là sự hồn nhiên, chân thật, không thi vị hóa hay tô hồng cuộc sống, chính hình đó đã làm cho hình ảnh thơ rất đỗi gần gũi và tạo nhiều xúc động trong lòng bạn đọc.

Trong vô vàn những kí ức tuổi thơ thì hình ảnh đọng lại với rất nhiều những nối niềm, đó là cuộc đời lam lũ, tần tảo, âm thầm  với muôn nghìn vất vả để nuôi dạy đứa cháu hiếu động, nghịch ngợm, ta cũng không thấy gì lạ về những người mẹ, người bà Việt Nam như thế nhưng đi vào thơ Nguyễn Duy lại xúc động lòng người và có sức ám ảnh đến vậy, bởi tính chân thực của đời sống và cái nhìn trìu mến, pha chút xót xa, hối hận của người cháu khi đã trưởng thành. Cuộc đời thực của bà được nhà thơ gửi lại trong bài thơ.

Đó là hình ảnh tảo tần, lam lũ, nhưng cũng chính là biểu tượng của lòng thương yêu con cháu, và hơn nữa là bản lĩnh của lối sống kiên cường, mà thầm lặng giữa hoàn cảnh khốn khó. Hình ảnh người bà vữa giản dị mà lớn lao, thân thiết mà gợi nhiều thương cảm, xót xa.

Từ láy “thập thừng” là một từ láy rất dân dã, có giá trị tạo hình cao, từng bước chân mưu sinh tảo tần của người bà được thể hiện đầy đủ qua từ láy đó. Nó không chắc chắn, người đi không tự làm chủ được đường đi hoặc do đường gập ghềnh, hoặc do tăm tối, không nhìn rõ, hoặc do bà đã kiệt sức.

Tuổi ấu thơ, tác giả cũng như mọi đứa trẻ đều vô tư, nghịch ngợm:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”

Hồn nhiên sống bên bà, vô tư say những trò trẻ con mà chẳng hiểu gì những nhọc nhằn của bà, bây giờ nghĩ lại mới thấy đắng lòng. Đó là tình thương chân thành và nỗi ân hận sâu sắc.

“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

giữa bà tôi và tiên phật thánh thần”

Đây chính là sự nhận lại bản thân của người cháu. Hai bò chính “ranh giới” của hai bên. Một bên là bên hư: thế giới của tiên phật, thần thánh, của thế giới huyền thoại và cổ tích. Bên thực là nói lên cuộc sống vất vả của người bà.  Đây chính là nỗi ngậm ngụi, ân hận vừa là sự chiêm nghiệm nhận ra cái giá phải trả cho những người ảo tưởng.

Các từ “bay tuốt”, “rủ nhau” thể hiện sắc thái hài hước, có pha chút dí dỏm nhưng có sự mỉa mai, những hình ảnh đời thường được gắn cho các thế lực siêu nhân, là bài học nhẹ nhàng nhưng thấm thía.

Hình ảnh “dòng sông”, “nấm mồ” thể hiện dư vị triết lý sống sâu sắc mà ngậm ngùi. Cuộc sống như dòng sông xưa, mãi trôi chảy “vẫn bên lở, bên bồi” với biết bao phồn tạp. Đi cùng dòng sông chính là cuộc đời nhận thức của mỗi người sẽ trưởng thành hơn, sẽ tự chiêm nghiệm được cái còn mất của cuộc đời.

Nhà phê bình Trịnh Thanh Sơn đã có những nhận xét về bài thơ như sau:

“Tôi đã đọc bài thơ thật hay này, trong nhiều năm và đọc đến thuộc lòng. Mỗi dịp về quê, đi qua Đò Lèn, tôi lại chợt gặp Nguyễn Duy và gặp cả bà ngoại Nguyễn Duy nữa. Tôi cứ nhìn đăm đăm những bà già bán trứng trước cửa ga, dò đoán xem đâu là bà ngoại của nhà thơ? Đương nhiên tôi hiểu bà ngoại Nguyễn Duy đâu còn nữa, vậy nên bây giờ anh có rất nhiều “bà ngoại”.

Bài thơ vào đề hồn nhiên, nhà thơ kể về những trò nghịch ngợm của tuổi thiếu thời ở những miền đất nơi quê ngoại. Nào là ra cống Na câu cá, nào níu váy bà đi chợ Bình Lâm, nào bắt chim sẻ ở vành tai tượng phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần…

Nguyễn Duy kể tên những cống, những chợ, những chùa… một cách hết sức tự nhiên mà xiết bao hoài niệm, ngỡ như không có sự gắn bó máu thịt thì không kể được. Rồi anh kể tiếp trong mạch hồi ức miên man của mình:

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Đến khổ thơ thứ ba, tâm thế của nhà thơ chuyển đột ngột như một thắt nút đầy kịch tính. Những trò chơi hồn nhiên đến vô tâm của thời thơ ấu đã va đập với thực tế thật khắc nghiệt. Nhà thơ như sực tỉnh và bỗng lớn vượt lên như một sự giã từ tuổi thơ để bước sang tuổi thành niên. Những lời thơ, vì thế đầy suy ngẫm:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán cháo Đồng Giao thập thững những đên hàn!

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top