Trang chủ » Phân tích truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp

Phân tích truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp

Bài làm 1

Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.

   Truyện ngắn “Người trong bao” được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!

   Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã “cười phá lên” khi Bê-li-cốp bị xô ngã “lộn nhào” xuống chân cầu thang, và cô đã “òa lên khóc” khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ !

   Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì “nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng “sợ hãi”, “lo âu”, “nhút nhát” . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói “ngọt ngào”: “Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai”, rồi “nheo mắt lại”, “giơ một ngón tay lên” và thốt ra tiếng: “An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!

Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì… tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn “cũng giấu vào bao”. Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để “ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài”. Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là “rõ ràng”. Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!

   Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại “linh hồn chết” trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.

ách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen “kì quặc”. Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để “duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè”. Nhưng hắn đến mà “chẳng nói chẳng rằng”, cứ “ngồi im như phổng”, mắt thì nhìn quanh “như tìm kiếm vật gì”, độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bẩy vì sợ rằng “nhỡ hắn biết thì lại phiền”. Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ…”.

   Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.

Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, “hắn toàn mơ những điều khủng khiếp” vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn “tái nhợt, rầu rĩ” một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.

   Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà “chật như cái hộp”, hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choán ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca… Thế là bức tranh biếm hoạ “An-thro-pos si tình” (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh “Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca”. Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn “một ấn tượng nặng nề”.

Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao . Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn. Bê-li-cốp chẳng gặp “hên” một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị “mặt mày ửng đỏ… vui vẻ, hớn hở” gào to: “Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!”. Bê-li-cốp “ngẩn người ra”, như bị choáng, bị ma ám: “Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch”. Người trong bao phàn nàn, trách cứ: “Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?”.

   Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống? Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên”, thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn “mặc áo ấm” lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách “tử tế, đứng đắn” của mình. Lấy tư cách là “bạn đồng nghiệp đi trước”, hắn nhắc nhở kẻ “mới bắt đầu đi làm” đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca “hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì “chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm”. Hắn bày tỏ thái độ nào là “phát kinh lên”, nào là mắt hoa lên” khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự “thận trọng”, không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì “còn ra cái thể thống gì”.

Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: “Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền”. Hắn dọa “sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện” đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.

   Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo” chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là “tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao “lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp “sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không”, thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà “tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu…

   Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca “cười phá lên vang khắp khu nhà”. Tiếng cười “ha-ha-ha!” lảnh lót, âm vang ấy “đã chấm dứt tất cả”: “chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười “lảnh lót” của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.

Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt “hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh”. Phải chăng hắn “mừng” vì được “chui vào cái bao” vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u”. Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca “bỗng òa lên khóc”. Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?

   Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy “nặng nề, mệt nhọc, vô vị” vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, “chẳng tốt đẹp gì hơn trước”. Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và “trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”. Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

ọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người “mũ nỉ che tai”,  “vòi rụt cổ”, “hủ lậu mà tinh tưởng” thời nào, xã hội nào chẳng có!

   Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới. Đọc truyện “Người trong bao”, ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống:

   Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì trệ.

   Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm “rách nát” cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài – cái bao nơi âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.

“Người trong bao” là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả “tự đi tìm bóng mình và soi vào bóng người” để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.

 

Bài làm 2

A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ XIX.

Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình đặc sắc của nhà văn sê-khốp trong tác phẩm Người trong bao.

Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phô phán mạnh mẽ kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao” cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ lậu mãi như thế.
Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc linh kỉnh đó, anh ta thấy yên tâm.

Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ, anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao ?

Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.

Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một tháng sau thì anh ta chết.

Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông đề cập đến kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao”, một kiểu người và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.

Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.

Chân dung Bê-li-cốp được tác giả miêu tả và thể hiện bằng những nét vẽ thần tình. Chân dung kì quái ấy dần dần được bổ sung, tô đậm thêm, về hình thức, Bê-li-cốp “nổi tiếng” vì cách phục sức khác người: cặp kính đen to tướng che gần hết khuôn mặt nhợt nhạt, choắt như mặt chồn, chiếc áo bành tô cốt bông bẻ cổ đứng lên, lỗ tai nhét bông, chân đi giày cao su… Tất cả các vật dụng lúc không dùng đến anh ta đều để trong bao.

Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống “đúng mực” của mình. Anh ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến như vậy ?!

Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái, chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.

Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao ? góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập dị của Bê-li-cốp.

Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.

Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là “chuẩn mực” nên thỏa mãn, hài lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ “lối sống trong bao” và khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở triết lí sống “chui trong vỏ ốc” đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.

Lối sống “trong bao” của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống “trong bao” ấy ám ảnh và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.

Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Lối sống “trong bao” bản thân nó đã là một cái chết, chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?

Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống “trong bao” và tính cách ấy đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi. Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống “trong bao” của anh ta vẫn tồn tại.

Tài năng của Sê-khốp thể hiện rất rõ qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, qua cách chọn ngôi kể, cách xây dựng nhân vật điển hình. Vì thế nến truyện ngắn Người trong bao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Nhân vật điển hình Bê-li-cốp tuy có nét riêng kì quái không giống bất cứ ai nhưng lại tiêu biểu cho một kiểu người, một lối sống khá phổ biến trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp đã vĩnh viễn nằm trong bao cách đây hơn thế kỉ, nhưng kiểu “người trong bao” và lối sống “trong bao” cùng những biến thể của nó vẫn tồn tại đây đó trong xã hội hiện đại. Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật, nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.

Bài làm 3

An – tôn Páp – lô – vích Sê – khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta – gan – róc bên bờ biển A – dốp. Ông đã để lại hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, trong đó có nhiều tác phẩm đặc sắc. Những tác phẩm của ông rất giản dị nhưng lại đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội. Người trong bao là truyện ngắn nổi tiếng của ông, câu chuyện kể về một con người mắc chứng bệnh sợ hãi, sống, chết đều thảm hại.

Truyện kể về nhân vật Bê – li – cốp, một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp có cuộc sống dị thường và tôn sùng quá khứ. Anh ta mắc chứng sợ hãi nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩa cá nhân của mình trước người khác. Anh ta thường đi giày cao su, che ô, mặc quần áo kín mít, đeo kính đen, đêm ngủ thì trùm chăn kín mít cả mặt để tạo cảm giác an toàn. Trong một lần, Bê – li – cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va – ren – ca, chị gái của đồn nghiệp thì đã có kẻ nào đó vẽ bức tranh châm biếm về anh. Hôm sa thì anh ta lại nhìn thấy Va – ren – ca cùng Cô – va – len phóng xe rất nhanh ở ngoài đường, anh đến để góp ý nhưng đã khiến cho Cô – va – len nổi nóng rồi đẩy anh xuống cầu thang khiến anh ngã lộn nhào. Vừa lúc đó thì Va – ren – ca về, cô nghĩ anh tự ngã nên đã đứng cười một cách nhạo bang. Từ đó khi ai hỏi anh ta gì thì anh ta chỉ trả lời có hoặc không, một tháng sau thì anh ta chết.

Trong nhà đề, tác giả đã đặt cho đứa con tinh thần của mình là “Người trong bao” chỉ với 3 từ ngắn ngủi nhưng nó đã hiện lên một phong thái của một con người ẩn dật, lo sợ, lúc nào cũng cần một cái gì đó che chắn, bảo vệ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi những thứ đến từ bên ngoài. Cái bao đó là tác giả muốn đặt tới với nhân vật Bê – li – cốp để nói lên tính cách, lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

Câu chuyện xoay quanh một con người với cuộc sống khép kín và tư tưởng cổ hủ đến lạc hậu vì nỗi sợ hãi và chẳng chịu chia sẻ với ai. Đó không phải là một cuộc sống tốt đẹp, nó khiến cho con người dễ rơi vào trạng thái trầm cảm và sợ hãi với mọi thứ. Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.

Ngoại hình của nhân vật Bê – li – cốp được tác giả khắc họa “hắn đều đi giày cao su, cầm cái ô và nhất thiết là mặc áo bành tổ ấm cốt bông”, “ô hắn để tỏng bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao; và khi rút chiếc dao nhỏ để ngọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng được đặt trong bao. Cả bộ mặt hắn ta nữa, dường như cũng để tỏng bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bè dựng đứng lên”. “Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông và khi ngồi trong xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui lên”. Mới qua vài dòng viết về nhân vật, ta đã cảm thấy một con người dị thường luôn sợ hãi với mọi thứ xung quanh mình.

Hắn có một thói quen mà tác giả viết “hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng…” chính là cách mà hắn giữ mối quan hệ với giáo viên trong trường.

Tính cách của hắn thì là con người thích áp đặt, biểu hiện rõ nhất tron cuộc đối thoại với Cô – va – len khi nhìn thấy chị em cô phóng xe nhanh đi trên phố. Hắn nói: “Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở với anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Một con người có suy nghĩ áp đặt tư tưởng và buộc người khác phải tuân theo đến cổ hủ, đến không biết đúng sai, đến mức khiến cho người khác khó chịu đến khôn cùng. Và hắn đã bị Cô – va – len đẩy xuống cầu thang vì quá bức bối và khó chịu với hắn.

Một con người lúc nào cũng sống theo kiểu bao che kín mít, không chịu hòa nhập với mọi người, với thiên nhiên, luôn luôn sợ hãi một điều gì đó sẽ ảnh hưởng với chính mình. Lúc nào cũng thu hẹp bộ não của mình tỏng những suy nghĩ tiêu cực và hèn nhát, quả là một con người trí thức nhưng tầm nhận thức quá hạn hẹp.

Bê – li – cốp đã biến cuộc sống của mình làm nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người. “thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời”. Cả thành phố cũng sợ hắn, cả các , các mẹ cũng sợ hắn, ngay cả giới tu hành khi gặp hắn cũng không dám ăn thịt hay đánh bài. Một lối sống xấu làm ảnh hưởng tới cuộc sống của rất nhiều người trong xã hội. Ngay cả những bản tính vốn có của người khác cũng b

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top