Bài làm 1
Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (gia biến và lưu lạc). Sau khi bị thằng bán tơ vu oan , gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng một người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh” là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao?. Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng “giám sinh”, hạng người có học.
Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.
Chân dung của y còn rõ nét qua hành động. Chỉ một câu:
“Trước thầy sau tớ lao xao”
Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ người ô hợp, nhốn nháo, lộn xộn, lưu manh lấc cấc.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:
“Ghế trên ngòi tót sỗ sàng”.
“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ.
Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh bộc lộ đầy đủ hơn trong cuộc mua bán Kiều. Miệng nói những lời hoa mỹ:
Rằng:”Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Nhưng hành động của y lại hoàn toàn trái ngược. Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học, hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn người, từ ngoại hình đến tính cách. Mã Giám Sinh trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
Nói đến Kiều trong toàn bộ cuộc mua bán này, Nguyễn Du đã để cho Kiều câm lặng, không nói được một lời nào. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được.
Nguyễn Du đã sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, để diễn tả tâm trạng của Kiều khác hẳn với đoạn miêu tả Kiều trong cuộc mua bán ở “Kim Vân Kiều truyện”, từ đầu đến cuối, Kiều tuyệt nhiên không nói một lời. Điều đó chứng tỏ sự sáng tạo của Nguyễn Du, sự am hiểu sâu sắc và thấu đáo tâm lý nhân vật của đại thi hào.
Nguyễn Du không đưa ra một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nhưng qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ, tâm trạng Kiều “Ngại ngùng dợn gió e sương…..mặt dày”, “nét buồn……..như mai” chúng ta cũng cảm nhận được sự cảm thông, xót xa cho người con gái đẹp tài hoa nhưng đã bị những thế lực hắc ám trong xã hội phong kiến ( bọn buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền) chà đạp, biến thành một món hàng giữa chợ.
Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm. Ông đã phơi bày một cách chân thật bản chất đê tiện, xấu xa của Mã Giám Sinh đồng thời lên án xã hội phong kiến, tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
Bài làm 2
Nguyễn Du được tôn vinh không chỉ đơn thuần vì tài năng mà ở tấm lòng của ông với những kiếp sống bị đoạ đày, đau khổ. Trái tim nhỏ bé của nhà văn đập bởi nhịp đập của quần chúng cần lao, để mỗi ngày sống qua, mỗi cảnh trông thấy đều khiên cho nhà thơ “thêm đau đớn lòng“. Mà dù thời đại nào, hoàn cảnh nào, người đau khổ nhất trong những người đau khổ vẫn là người phụ nữ. Lòng nhân hậu của bậc thiên tài đã giúp ông hiểu sâu sắc được nỗi bất hạnh muôn đời của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thối nát, để thốt lên đầy xót xa, ai oán trong thơ của mình:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Thuý Kiều là một trong những nhân vật có số phận như vậy. Trong Truyện Kiều của ông, nàng hiện thân cho những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” điển hình của chế độ phong kiến xưa kia. Điều đó được thể hiện sinh động qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu lứơng thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Thuý Kiều và Thuý Vân vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ. Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh. Một là số phận bi kịch của Đạm Tiên như thầm dự báo trước tương lai của Kiều, cuộc gặp sau là niềm đam mê, hạnh phúc với chàng Kim Trọng tài hoa nhất bậc. Nếu không có “tai biến bất kì” thì cuộc đời cô gái “nghiêng nước nghiêng thành” này đã chẳng có trong thơ Nguyễn Du. Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết đính bán mình chuộc cha. Mặc dù đau đớn vô cùng, Kiều vẫn phải rời xa gia đình, từ bỏ mối tình đầu đép đẽ và trong sáng với Kim Trọng để trở thành món hàng mua bán với gã con buôn đê tiện Mã Giám Sinh.
Khi mụ mối đưa người viễn khách họ Mã tới để hỏi Kiều về làm vợ thì cuộc gặp gỡ ban đầu đã diễn ra trong đau đớn tuyệt vọng. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất mà chỉ ngay đêm hôm đó Kiều đã nhận xét với mẹ mình rất đúng về hắn:
Khác màu kẻ quỷ người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.
Khó có thể hình dung ra cuộc gặp mặt nào não nề, đớn đau hơn thế!
Tâm tình ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các:
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Hình ảnh thẹn thùng của nàng là nỗi xấu hổ của người con gái mới lớn không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu lại vừa là sự hổ thẹn cho thân phận bất hạnh của mình. Trước nỗi đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh không một chút mảy may thương cảm mà còn xem nàng như xem một món hàng cần mua ở chợ:
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Xem xét mọi vẻ chứa đủ, hắn còn thử tài của Kiều theo kiểu của kẻ có tiền muốn mua hàng hoá xứng đáng với đồng tiền sẽ bỏ ra:
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Người thiếu nữ “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai” được tên lái buôn họ Mã “đắn đo” mãi để “cân sắc cân tài”: ước lượng để sao mua được thật rẻ “món hàng” vô giá này. Chúng ta không thể không thương xót cho Kiều khi kẻ đê tiện “cò kè”, “thêm bớt” từng tí để ngã giá mua nàng với bốn trăm lượng… Kiều đau đớn thế nào khi nghĩ gã buôn thịt bán người ti tiện nhất thế gian này lại có thể làm chồng mình? Càng tan nát lòng hơn khi trong trái tim nàng in sâu hình bóng chàng Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Bắt đầu từ đây cuộc đời nàng bước ngoặt sang một trang khác, không còn êm đềm, ngọt ngào như trước nữa.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh’ mua Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Trái tim tràn đầy nhân ái, yêu thương của nhà thơ đã để cho Kiều trong khi quyết liệt đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cho người phụ nữ nói chung thì cũng tố cáo sâu sắc cái xã hội lúc bấy giờ.
(Đinh Thuỳ Linh, lớp 91, Trường THCS Trưng Nhị, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội)
Bài làm 3
Sống trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu nhiều đau đớn, tủi nhục lầm than , nghèo khổ , có những sự đau đớn tủi nhục còn lớn hơn đó chính là số phân đau đớn của thân phận con người mà số phận thúy kiều trong đoạn trích mã giám sinh mua kiều là tiêu biểu
trước hết thúy kiều là cô gái sinh ra trong 1 gđ trung lưu lương thiện . Đang cùng em gái sống trong cảnh "trướng rủ nàm che". Hơn thế nữa kiều vốn là cô gái tài sắc vẹn toàn mà nói như Nguyễn Du "sắc đành tài 1 , tài đành họa 2"_sắc đẹp thì nàng đẹp nhất còn về tài năng thì may ra có người thứ 2 . Nhưng bỗng đâu 1 ngày tai bay vại gió đến với gđ Thúy kiều , cha &em bị đánh đập dã man , của rả trong nhà bị khuân đi hết . Kiều đành chấp nhận bán mình để nhân 300 lượng vàng cứu cha .
Vẫn biết khi chấp nhận bán mình cứu cha nàng sẽ trở thành món hàng nhưng là 1 cô gái luôn có ý thức về nhân phẩm của mình nàng ra mắt MGS mà lòng vẫn ngổn ngang bao nỗi tơ vò . Mỗi bước nàng đi chang chứa những dòng nước mắt
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa 1 bước lệ hoa mấy hàng
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng :
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn tronggương mặt dày
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai
Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều . từ đó biết bao nhiêu tinh hoa , tài năng trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng con người được Nguyễn Du sử dụng ở đây
Đoạn trích không dài , đặc biệt khi nhắc đến nhân vật Thúy Kiều , Nguyễn Du chỉ sử dung 4 cặp câu lục bát .Ấy vậy mà biết bao nhiêu lời tố cáo xã hoịphong kiến chà đạp lên con người ở đây . Biết bao nhiêu niềm thương cảm xót xa cho số phận con người được toát lên từ đây . Đọc trích đoạn thương kiều bao nhiêu ta càng căng ghét chế độ phong kiến bấy nhiêu.