Câu 1: Nêu các điểm tích cực và hạn chế của sự phát triển nông nghiệp giai đoạn này
Trả lời:
– Tích cực :
+ Nhân dân ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đã đẩy mạnh khai hoang để mở rộng diện tích đất canh tác (đặc biệt là việc đẩy manh khai hoang ở vùng đất Nam Bộ ngày nay), nhờ đó diện tích ruộng đất cả nước đã tăng lên nhanh chóng.
+ Nhân dân 2 miền đã ra sức tăng gia sản xuất, bồi đắp đê đập, nạo vét mương máng.
+ Đã biết cách nhân giống, tạo ra hàng chục giống lúa tẻ, lúa nếp có năng suất, chất lượng tốt hơn. Ngoài ra, còn trồng nhiều loại cây lương thực khác để đảm bảo cuộc sống và cung cấp ngày càng nhiều cho thị trường. Vùng Nam Bộ đã trở thành vựa lúa của cả nước.
– Hạn chế : Cùng với việc mở rộng diện tích ruộng đất thì trong giai đoạn nàv tình trạng ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ cũng diễn ra mạnh mẽ, đã xuất hiện những địa chủ có hàng trăm, hàng nghìn mẫu ruộng. Ruộng đất công ngày càng thu hẹp.
Câu 2: Sự phát triển của làng thủ công đương thời có ý nghĩa tích cực như thế nào ? Liên hệ với ngày nay
Trả lời:
– Đời sống được cải thiện hơn.
– Cùng với sự phát triển của thủ công nghiệp luôn là những sản phẩm có giá trị về cả vật chất và tinh thần.
– Nhiều ngành nghề vẫn còn đến ngày nay.
– Cơ hội để phát triển kinh tế nói chung, đem lại lợi nhuận.
Câu 3: Phân tích tác dụng của sự phát triển buôn bán trong nước
Trả lời:
– Thế kỷ XVI – XVIII kinh tế nước ta phát triển mới, phồn thịnh.
– Thủ công nghiệp ngày càng tăng tiến nhưng không thể chuyển hoá sang phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
– Sự phát triển của ngoại thương và đô thị đưa đất nước tiếp cận với nền kinh tế thế giới.
– Song do chính sách của Nhà nước nên cuối thế kỷ XVIII, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu.
Câu 4: Vào các thế kỉ XV – XVI, trên thế giới có sự kiện gì đáng ghi nhớ góp phần quan trọng vào sự giao lưu quốc tế?
Trả lời:
Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của đô thị.
Vào các thế kỉ XVI – XVIII, nhiều đô thị mới hình thành ở miền Bắc và miền Nam. Khu cư dân Thăng Long cũng phát triển với tên Kẻ Chợ gồm 36 phố phường và 8 chợ.
Một thương nhân nước ngoài đã mô tả : “Các phố ở Kẻ Chợ đều rộng, đẹp và lát gạch từng phần…” Một thương nhân khác nói thêm : “Tất cả những vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường…”
Phố Hiến (phía nam thị xã Hưng Yên ngày nay) ra đời và phát triển phồn thịnh. Nhân dân có câu ‘Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến ”. Theo người phương Tây mô tả, bấy giờ Phố Hiến có khoảng 2000 nóc nhà.
Hội An là thành phố cảng lớn nhất ở Đàng Trong (trên đất Quảng Nam ngày nay), phát triển chủ yếu ở các thế kỉ XVII – XVIII.
Giáo sĩ Bo-ri đã viết : “Hải cảng đẹp nhất, nơi mà thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán là hải cảng thuộc tỉnh Các-ci-am (Quảng Nam)… Thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có 2 thị trấn, một của người Trung Quốc và một của người Nhật Bản.” (Tường trình về vương quốc Đàng Trong)
Câu 5: Sự phát triển của ngoại thương có tác dụng gì đối với nền kinh tế nước ta ?
Trả lời:
Ngoại thương mang lại cho đất nước thu nhập thấp cơ hội to lớn để như đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển. Với ngoại thương mở cửa hơn, các gia đình và thương nhân có nhiều chọn lựa hơn về chất lượng, giá cả, và có nhiều hàng hoá phong phú hơn so với khi chỉ được mua từ các nhà bán buôn nội địa. Các nhà sản xuất có những nơi rộng lớn hơn để bán hàng.