Bài làm 1
Chúng ta có thể thấy cảm nghĩ về bài mùa xuân của tôi là một trong những bài tùy bút khiến chúng ta nhận ra một mùa xuân đất Bắc vô cùng đẹp và tuyệt vời.
Đề tài mùa xuân luôn là một đề tài bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện những cảm xúc sáng tác của mình. Một trong những cây bút thơ văn hay và sâu sắc như Vũ Bằng cũng không thể nào bỏ qua đề tài này để vẽ nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp và ngọt ngào qua bài tùy bút: Mùa xuân của tôi . Với ngòi bút đầy chất thơ và giọng văn vô cùng tinh tế những câu văn trong : Mùa xuân của tôi như những dòng suy nghĩ tản mạn của nhà văn nói với độc giả nhằm giãi bày cảm xúc sâu lắng của mình về một mùa xuân trong trẻo – mùa giao thoa của đất trời với một năm mới ấm áp, bình an và nỗi nhớ thương của một người con đang xa quê nhà.
Bằng lời lẽ nhẹ nhàng, câu từ truyền cảm, tác giả dìu dắt người đọc liên tưởng về mùa xuân đất Bắc với tiết trời tươi đẹp, đầy căng nhựa sống, mô tỏa một cách tỉ mỉ bằng lời lẽ bay bổng về một mùa ấm áp nhất trong năm.
Các đoạn trong bài tùy bút tưởng chừng như riêng rẽ mà lien kết mạch lạc với nhau mục đích thể hiện tình cảm của con người với mùa xuân, cảm nhận về tháng giêng…những tình cảm này rất tự nhiên và rõ rang.
Đoạn đầu tiên mô tả cảnh sắc mùa xuân Hà Nội và mùa xuân của miền Bắc qua những câu văn cụ thể như: Mưa rêu rêu, gió lành lạnh” . Những câu từ đó như lưu luyến mùa đông, nhưng vẫn vui mừng với không khí ấm áp của mùa xuân. Những âm thanh như tiếng trống chèo, tiếng nhạn kêu, tiếng hát huê tình dường như cũng đang hòa cùng mùi hương đèn nhang, gợi nhớ đến không khí đonà tụ của gia đình. Tâm hồn người xa quê lúc này nhớ lại hết những ký ức từng có nơi quê hương với niềm nhớ thương vô bờ.
biết!
Không chỉ những hình ảnh và âm thanh xung quanh, tác giả còn thể hiện sức sống mãnh liệt của con người với những hình ảnh so sánh: Ngồi yên không chịu được, nhựa sống trong người căng lên như máu”, hay: “tim người ta dường như trẻ hơn, và đập mạnh hơn…”. Ngay cả cảm nhận về cái rét cũng quá đỗi ngọt ngào, chứ không còn tê buốt, ớn lạnh.
Tác giả sử dụng ngôn ngữ chọn lọc rất tinh tế, hình ảnh so sánh cụ thể, cùng với sự cảm nhận và sáng tạo đã khiến cho tác phẩm : Mùa xuân của tôi gợi nên nhiều dư vị trong lòng người đọc.
Tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của đất trời ở đoạn văn cuối, nét đẹp của thiên nhiên sau ngày rằm tháng giêng. Thời điểm giao mùa ấy đất trời dường như giao thoa với nhau, chỉ cần đọc thôi lòng người cũng như muốn đồng điệu theo thiên nhiên. Chính vì tình yêu và nỗi nhớ da diết của một người con xa quê hương đã khơi gợi được những cảm xúc đáng quý đó đồng thời khơi gợi bao nỗi niềm của chính tác giả qua ngòi bút nhạy cảm và tinh tế.
Qua tác phẩm: Mùa xuân của tôi, Vũ Bằng đã tái hiện lại những cảm xúc của một người con xa quê hương nhớ về mùa xuân nơi đất Bắc, dù thấm đượm tình cảm nhưng không kém phần tinh tế và dịu ngọt. Chính tác phẩm đã gieo vào lòng người bao sức sống và tình yêu quê hương.
Bài làm 2
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn nhà thơ, và Vũ Bằng cũng không phải là ngoại lệ. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nhớ đến tiết trời tươi mát, vạn vật đâm chồi, căng tràn sức sống. Là tết đến, đào mai khoe sắc, là hạnh phúc xum vầy. Nên trong một dịp tết xa quê tác giả đã viết nên bài “ Mùa xuân của tôi” để nói lên những kỷ niệm với mùa xuân Hà Nôi.
Bài văn được ra đời khi tác giả phải sống trong cảnh đất nước bị chia lìa. Đau đớn thay tác giả lại sống giữa vùng bị Mỹ – Ngụy chiếm đóng. Giữ sự kìm kẹp của thực dân xâm lăng dường như tình yêu của tác giả với quê hương càng cháy bỏng . Vũ Bằng đã dùng những trang văn để nói lên hết những tình yêu, nỗi nhớ thương của mình về mùa xuân Hà Nội – quê hương của ông.
Sâu lắng và ngọt ngào chính là cảm nhận đầu tiên khi chúng ta đọc những trang tùy bút của Vũ Bằng về mùa xuân. Mùa xuân trong trí nhớ của tác giả chính là sự giao thoa của trời và đất. Là sự bắt đầu của vạn vật sau một mùa đông dài lạnh lẽo. Là cột mốc đánh dấu thời gian khi bước sang năm mới. Là sự hòa quyện của cảnh vật thiên nhiên và con người. Bằng lối viết nhẹ nhàng, sâu lắng tác giả đã đưa người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng tràn nhựa sống. Từng câu từng chữ trong bài chính là tình yêu của Vũ Bằng dành cho mùa xuân đất Bắc.
Nỗi nhớ đầu tiên của tác giả về mùa xuân đất Bắc chính là thời tiết và khí xuân với “mưa rêu rêu gió lành lạnh” . Đây chính là nét đặc trưng mà không nơi nào có được, và cũng chính trên nền khí xuân này tác giả lần lượt vẽ nên nỗi nhớ của mình. Đó là những thanh âm của mùa xuân vẫy gọi, tiếng chim nhạn kêu, văng vẳng đâu xa câu hát huê tình cùng mùi thơm thoang thoảng ấm áp của nhang trầm, không khí gia đình ấm áp đã làm tác giả thổn thức trong tim. Sự bình dị, yên bình sao giờ đây là nóng bỏng và da diết đến thế.
Mùa xuân không chỉ mang đến cho thiên nhiên vẻ đẹp lạ kỳ mà còn khiến lòng người thao thức không yên “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Vậy là cái nhựa sống tràn đầy của mùa xuân đã đánh thức bản năng của con người, thôi thúc người ta phải thức tỉnh sau những ngày đông giá rét. Mùa xuân đã thắp lên những ngọn lửa trong tim “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”.
Nếu mùa xuân trong thơ của Xuân Diệu “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” đầy hối hả, gợi cảm thì mùa xuân của Vũ Bằng lại trầm lắng và da diết làm sao nó khiến cho người đọc lâng lâng, mê đắm.
Bằng giọng văn trầm bổng, mềm mại du dương đầy chất thơ Vũ Bằng đã đưa độc giả cảm nhận trọn vẹn mùa xuân đất Bắc. Qua đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước của một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm.
Bài làm 3
Mùa xuân của tôilà phần đầu bài tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng. Vũ Bằng (1913 – 1984) là nhà văn, nhà báo Hà Nội, đã nổi tiếng trước năm 1945. Ông viết tác phẩm này tại Sài Gòn trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, gửi gắm bao nỗi “sầu biệt li vơi sáng đầy chiều”: nhớ vợ con, nhớ gia đình, nhớ quê hương, nhớ miền Bắc, nhớ Hà Nội… Mỗi tháng Ông có một nỗi nhớ, nhớ triền miên, nhớ dằng dặc suốt năm.
Tháng giêng và mùaxuân Hà Nội, mùa xuân miền Bắc đối với Vũ Bằng sao nhớ thế. Nỗi nhớ ấy, nỗi buồn đẹp ấy là của khách“thiên lí tương tư”.
“Ai cũng chuộng mùa xuân” và “mê luyến mùa xuân” nên càng “trìu mến” tháng giêng, tháng đầu mùa của mùa xuân. Tình cảm ấy rất chân tình “không có gì lạ hết”. Cách so sánh đôi chiếu của Vũ Bằng rất phong tình gợi cảm: “Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được: trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Một cách viết duyên dáng, cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ: “ai bảo được..”, “ai cấm được… ai cấm được… ai cấm được..”. Chữ “thương” được nhắc lại bốn lần, liên kết với chữ “yêu”, chữ “nhớ" đầy ấn tượng và rung động.
Là một khách tài tử yêu cảnh sắc thiên nhiên “yêu sông xanh núi tím”, rất đa tình, yêu nhan sắc giai nhân “đôi mày như trăng mới in ngần”, yêu những “mộng ước của mình”. Nhưng Vũ Bằng đã tâm sự là mình “yêu nhất mùa xuân không phải vì thế”. Câu văn như nhún nhảy: “tôi yêu… tôi yêu… và tôi cũng xây mộng… những yêu nhất”. Thoáng gợi một câu thơ Kiều của Nguyễn Du, một cách viết, tài hoa.
Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ và yêu nhất là mùa xuân miền Bắc, mùa xuân Hà Nội, nơi có gia đình và vợ con ông, mà ông đã nhiều năm tháng cách biệt. Ông nhớ cái “mưa riêu riêu”, cái “gió lành lạnh” của mùa xuân quê hương. Ông thương nhớ những âm thanh mùa xuân miền Bắc: “tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..”. Tình thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng rất thiết tha nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trang trải khắp cảnh sắc và con người, từ xóm thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo, đến câu tình ca thôn nữ.
Càng yêu cảnh bao nhiêu, tác giả càng yêu sự sống bấy nhiêu! “Cái mùa xuân thần thánh” rất diệu kì. Vũ Bằng đã sử dụng hai so sánh để nói lên cái diệu kì ấy: “Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ ti tí giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh".
Cùng với cảm hứng mùa xuân ấy, Vũ Bằng cho biết, trong “cái rét ngọt ngào” của mùa xuân, “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và dập mạnh hơn..!’ và “thèm khát yêu thương thực sự”, yêu đồng loại, yêu gia đình. Trong không khí gia đình đoàn tụ êm đềm giữa những ngày xuân, lòng người “ấm lạ ấm lùng", bao niềm vui sướng hạnh phúc tưởng “như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan”.
San sẻ với bao thương nhớ của Vũ Bằng, ta càng thấy rõ ông yêu mùa xuân, yêu cảnh vật, yêu con người của quê hương xứ sở, lại càng yêu sống, yêu đời hơn bao giờ hết.
Câu văn xuôi của Vũ Bằng rất giàu biểu cảm và chất thơ trữ tình. Chất thơ lắng dịu ngọt ngào. Ta hãy khẽ đọc và cùng nhau cảm thụ: “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”.
Yêu mùa xuân quê hương, nhưng tác giả “yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng”. Lúc ấy có biết bao xuân tứ, xuân tình. Bao cảnh sắc vương vấn. “Đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong”, cỏ thì “nức một mùi hương man mác”. Con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa trên giàn thiên lí. Sau cơn mưa xuân, bầu trời xuân rất đẹp. Buổi sáng sớm thấy “những vệt xanh tươi hiện ở trên trời”. Độ tám chín giờ “trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”. Cà om thịt thăn điểm lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng, là hương vị đậm đà bữa cơm giản dị gia đình. Đã mấy ai trong chúng ta được thưởng thức như Vũ Bằng? Hương vị đậm đà ấy tưởng như được ướp hương xuân.
Mùa xuân của tôithể hiện phong cách của Vũ Bằng: một lối viết tài hoa, câu chữ mượt mà, lời văn giàu hình ảnh, cảm xúc trong sáng đậm đà, giọng văn nhẹ nhàng, mơn man như làn gió xuân.
Với Vũ Bằng, tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên miền Bắc, yêu mùa xuân Hà Nội rất nồng hậu đắm say; tình yêu ấy gắn bó với bao kỉ niệm, bao nỗi nhớ vơi đầy trong tâm hồn khách xa quê. Trong hoàn cảnh đất nước bị quân thù chia cắt, tác giả nhớ mùa xuân Hà Nội cũng là nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, vợ con đã bao ngày đêm năm tháng cách biệt. Tác giả đã kín đáo gửi qua Thương nhớ mười hai một niềm tin sắt son chung thủy về cội nguồn, về ý chí thống nhất đất nước, về Bắc – Nam liền một dải, sự họp một nhà mà không thế lực nào, kẻ thù nào có thể chia cắt được.