Bài làm 1
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, đông con. Những người họ hàng hoặc quen biết đều nói tôi giống cha tôi nhất. Điều đó khiến tôi hãnh diện, một niềm hãnh diện rất trẻ thơ. Chẳng biết có phải vì thế hay không mà tôi yêu cha lắm!
Cha tôi là một thợ mộc khá nổi tiếng ở cái thị xã trung du này. Đôi tay tài khéo của cha đã đóng không biết bao nhiêu giường, tủ, sa lông, và các vật dụng bằng gỗ khác cho mọi nhà. Cha nghèo, không có vốn mua sẵn gỗ nên ai muốn đóng thứ gì thì mang gỗ đến.
Xưởng mộc của cha tôi là cái chái nhà rộng chừng ba chục mét vuông có đủ các đồ nghề cần thiết: cưa dọc, cưa ngang, bào lớn, bào nhỏ, thước xếp, thước gỗ, thước vuông, tràng, đục, dây nảy mực… Một chiếc ghế dài đến mấy mét bằng nguyên một thân cây xẻ dọc làm đôi kê gần sát tường là chỗ để cha tôi cưa và bào gỗ. Trên mặt đất là lớp mùn cưa mịn màng và lớp vỏ bào loăn xoăn, bốc mùi thơm hăng hắc khó tả của nhiều loại cây rừng.
Giữa khung cảnh đó, cha tôi cần cù làm việc, hết ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác để kiếm tiền nuôi đàn con khôn lớn, đứa nào cũng được học hành tử tế. Cha thường nói với mẹ rằng chẳng có của cải đáng kể gì để lại cho các con thì cho cái chữ, cái nghề. Đứa nào ráng học đến đâu thì cha cũng ráng nuôi đến đó.
Không khí gia đình tôi vui nhất là vào những bữa cơm. Những món ăn đạm bạc do mẹ tôi nấu như canh cua đồng mùng tơi, chuối xanh nấu ốc, đậu phụ rán giòn, canh dưa chua nấu với cá trê… cùng với đĩa cà pháo trắng tinh hay đĩa dưa cải muối xổi… .vậy mà sao ngon lạ ngon lùng ! Ngắm đàn con ăn như tằm ăn rỗi, cha mẹ tôi nhìn nhau, ánh mắt vừa tỏ vẻ hài lòng lại vừa lo lắng.
Tình thương của cha tôi thể hiện qua từng hành động nhỏ hằng ngày như chuốt cho các con từng chiếc bút chì, bọc từng quyển sách, quyển vở. Cha hướng dẫn con lớn học bài và dạy con nhỏ tập viết từng nét thẳng, nét cong. Cha dạy anh chị em trong nhà phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Vì nhà nghèo nên Tết Trung Thu nào cha tôi cũng tự tay làm đèn cho các con. Cứ trước rằm một tuần là cha vào làng xin một cây tre nhỏ. Tự tay cha chẻ tre, chuốt nan và làm khung đèn con thô, đèn con cá chép và đèn ông sao. Tôi thích chiếc đèn ông sao thật lớn dán bằng giấy bóng kính màu đỏ, xung quanh là một vòng tròn dán giấy tua rua ngũ sắc. Ở trong, cha cắm một ngọn nến lung linh. Cha đem treo chiếc đèn ấy ở cành bưởi trước sân, bên dưới là mâm cỗ đón trăng có đủ bưởi vàng, hồng đỏ, ổi đào và mía tím, toàn những trái cây vườn nhà do chính tay cha trồng và chăm sóc.
Năm tôi mười bốn tuổi, cha bắt đầu dạy tôi nghề thợ mộc. Việc làm đầu tiên là tôi giúp cha nảy mực lên tấm ván. Sợi dây nhỏ rất săn được tẩm đẫm nhọ nồi. Tôi cầm một đầu, cha cầm một đầu đặt theo đúng dấu đã đánh sẵn. Cha nheo mắt ngắm kĩ, lấy ngón tay nhấc lên ở chính giữa rồi buông ra. Sợi dây được kéo căng nảy lên một cái rồi hạ xuống, vết sẫm do nó để lại in thẳng băng trên mặt ván. Cha cười rồi hỏi tôi giờ thì đã hiểu thế nào là cầm cân nảy mực hay chưa?
Rồi cha dạy tôi tập bào. Hai tay cầm hai tai bào ra sao, độ cúi, độ nhấn và cách đưa bào cho trơn tru, không vấp váp. Khó ghê! Cái bào như vùng vằng muốn chống lại tôi. Nó chẳng chịu đi mà cứ giật cục hoài khiến mặt ván nham nhở. Cha kiên nhẫn hướng dẫn cho tôi từng động tác. Sau nửa tháng, tôi đã có thể bào gỗ thành thạo. Tuy nhiên, “tài nghệ” thì còn kém cha nhiều lắm!
Hai cha con cứ vừa làm vừa rủ rỉ chuyện trò. Tôi nhớ mãi lời cha khuyên: “Muốn trở thành một thợ mộc giỏi, ngoài sự khéo tay ra thì còn phải cần cù, kiên nhẫn và có óc tưởng tượng, sáng tạo. Nhìn đồ vật, ta có thể đoán được phần nào tính cách người làm ra nó”;
Hai sản phẩm mộc đầu tiên hoàn toàn do tôi tự đóng dưới sự hướng dẫn của cha là chiếc kệ sách và chiếc bàn học. Chúng vững chãi và xinh xắn làm sao! Chúng khiến cho góc học tập của mấy anh em tôi trở nên gọn gàng, ngăn nắp.
Từ đó, tôi trở thành thợ phụ đắc lực của cha. Cứ xong việc học hành là tôi giúp cha đóng tủ, đóng giường theo đơn đặt hàng của khách. Công việc khá nhiều mà cha tôi đã có tuổi. Tôi thương cha lắm! Có những lúc, tôi lặng lẽ ngắm đôi bàn tay chai sần của cha, ngắm chiếc kính lão trễ, xuống gần chóp mũi của cha mà trong lòng dấy lên một cảm xúc khó tả. Tôi khẽ nói: “Cha để cho con bào”. Hoặc: “Cha để đấy con cưa!”. Cha vui vẻ nhường việc cho tôi nhưng vẫn không rời mắt và luôn nhắc nhở: “Làm bất cứ việc gì cũng phải cẩn thận và giữ uy tín con ạ! Hơn hai chục năm nay cha làm thợ mộc, vật dụng đóng ra kể cũng đến vài trăm, nhưng cha chưa để khách hàng phải trách cứ điều gì. Vì thế mới nuôi nổi các con ăn học!”.
Tôi vụng về, chẳng biết thổ lộ những lời yêu thương kính trọng đối với cha như thế nào nhưng tôi luôn thầm cầu nguyện cho cha sống khỏe, sống lâu đến ngày cả đàn con trưởng thành. Bất chợt, bên tai tôi lại văng vẳng câu ca dao mà cha thường ngâm nga lúc làm việc:
Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây phúc để đời cho con!
Bài làm 2
Như một tín hiệu không rõ ràng cụ thể, thoắt thu sang, những hàng cây ven đường rùng mình đổi áo mới: Những chiếc là vàng thấm đãm hương vị ngọt ngào se lạnh của mùa thu lác đác bay. Mỗi lần, nhìn chiếc lá lìa cành chu du cùng cơn gió heo may, tôi lại nhớ đến ông nội. Những chuổi kỷ niệm về ông như theo cái sắc vàng giòn tan của mùa thu ùa về trong tâm trí, khiến tôi không khỏi bồi hồi.
Ông tôi là một người mà tôi rất mực yêu mến và kính yêu. Thủa nhỏ, tôi hường hay tưởng tượng ông như một cây đại thụ: Cái dáng ông cao lớn, bàn tay to bè, làn da ngăm đen, sần sùi thô ráp, những nếp nhăn xô lại với nhau thành những kẽ nứt trên khuôn mặt có phần hơi khắc khổ vì gió sương cuộc đời. Ông tôi đặc biệt yêu thích cây, quanh nhà có một khu vườn mênh mông, gần như gom hết đủ thứ cây cỏ trên đời này: Từ cây cảnh đến cây ăn quả. Hồi bé, tôi chỉ thích về quê nội chơi, ăn no nên quả thơm trái ngọt, hay lừa lừ lúc ông không để ý mà vặt trộm bông hóa hiếm hoi của cây hoa cảnh, làm ông tiếc ngẩn ngơ.
Ông có thói quen ra vườn và nghe cây. Ông cứ đứng đó, giữa vườn cây, nhắm mắt, nghe cái âm thành xào xạc, ngửi mùi đất hăng nồng, mùi nhựa cây chan chát. Ông tôi hay bịt mắt tôi giữa vườn caay, ông dạy tôi cách lắng nghe: Tiếng chim hót, tiếng ve, tiếng dế, tiếng là cây xào xạo khua lên những bản nhạc yên bình thôn dã. Không chỉ nghe, tôi còn cảm nhận nhiều hơn nữa từ thiên nhiên: Cái mát lành của gió mơn man, cái ran rát của nắng hè trên da, mùi đất, mùi nồng nồng của những con mưa hè vội vã… Ông tôi gọi cái giây phút tĩnh lặng đứng giữa vườn cây đó là “cảm nhận sự sống”.
Người già thường luôn có linh cảm về những giây phút cuối cùng của đời người. Một chiều, ông dần tôi ra vườn. Ông chỉ những chiếc lá vàng bay bay, nói “Đó là ông.” Ông chỉ những chiếc lá xanh non mỡ mang vẫn con trên cây “Đó là cháu”. Tôi hỏi tại sao. “Bởi một chiếc là bao giờ cũng phải tuân theo quy luật của tự nhiên. Muốn co lá xanh, lá vàng phải rụng. Lá xanh góp cái tươi non cho đời, rồi lại trở thành lá vàng. Con người cũng thế, hãy sống hết mình khi cháu hãy còn xanh, cháu nhé!” Thưở ấy tôi còn bé quá, chưa hiểu triết lỹ gì sâu xa, chỉ thấy đôi mắt ông buồn buồn, cảnh vật dường như cũng ảo não theo. Những chiếc lá không còn cháy lên sắc vàng mật ngọt, chỉ còn một màu héo úa lặng lẽ bay.
Tôi rời xa ông, thoe bố mẹ ra thành phố. Chuyện học hành, thi cử cuốn tôi đi, khiến cho những phút “cảm nhận sự sống” kia dường như xa lắm. Mọi thứ sang trọng, tiện nghi của cuộc sống thay thế cho cái dân dã, yên bình của thôn quê. Tôi quên ông như quên đi vườn cây, quên đi lá vàng…. Chiều chiều, khi những cánh chim bay về tổ ấm, những áng mây tìm chỗ trú ngụ bình yên nơi cuối trời, ông lặng lẽ thổi cơm. Lùa trệu trạo vào cái rau, con cá cho qua bữa, ông hay thẫn thờ nhìn ảnh bà tôi, thắp vài nén hương “Bà trên trời có linh phù hộ cho chúng nó làm ăn phát đạt, con cháu hay ăn chóng lớn”. Đắp chiếc chăn mỏng, tấm lưng to bè của ông rùng mình theo từng cơn gió lùa qua cửa sổ. “Đông về rồi đấy”, ông lẩm nhẩm, và trong căn nhà lạnh lẽo này, mùa đông cũng dài hơn.
Gia đình tôi có hiềm khích. Các chú dì đòi bán khu vườn của ông, lấy tiền đi làm kinh tế. Ông giận dữ “Khu vườn này của u mày cả đời làm lụng, không được bán” Nhưng, chuyện người lớn, tôi cũng không thể tham gia, và dần dần quên đi.
Vì lo lắng cho việc này, sức khỏe của ông giảm sút rõ rệt. Tôi đến thăm ông, nhắc ông giữa gìn sức khỏe rồi lại vội vàng đi ngay. Khu vườn vaanx xào xạc như nuối tiếc vẫy chào tôi. Để ý thấy, từ khi ông ngã bệnh, khu vườn thiếu bàn tay ông chăm sóc, xơ xác đi. Lá vàng rụng nhiều hơn, như đời người sắp tàn.
Nhẹ nhàng và thanh thản, ông tôi ra đi, như chiếc lá lìa cành. Ngày đưa tang ông, trời mưa nhẹ. Tôi tưởng tượng ra rằng, vào những giây phút cuối, ông nghĩ đến hình ảnh một khu vườn xanh mướt ngập tiếng chim, tiếng cưởi trong trẻo của tôi, nụ cười hiền hâu của bà. Tôi bỗng thấy hụt hẫng quá, từ trước đến giớ, dường như tôi đã quên mất cái gì quan trọng lắm. Để bây giờ, khi ông ra đi, tôi mới thấy mất mát vô cùng, không có gì cứu vãn nổi. Nước mắt tôi cứ tự traò ra từ lúc nào không hay. Nhưng, chạy ra vườn, những đám lá vẫn xào xạc như vỗ về, ánh nắng, tiếng chim , lá cây … vẫn hiền hòa như thưở bé, tất cả như bao dung tha thứ. VÀ đâu đó, trên vòm cây cao kia, dường như vẫn còn vương nụ cười hiền hậu của ông dành cho tôi, Tôi bất chợt thấy nhẹ nhõm, và bao phút giấy “Cảm nhận sự sống” xưa vẫn còn nguyên vẹn ùa về.
Đời người như chiếc lá. Thà huy hoàng chợt tắt còn hơn le lói trăm năm, như một thi sĩ nào đã nói. Trời thu xanh ngắt, lông lộng. Biết đâu, ở trên cao kia, ông vẫn đang dõi theo tôi, mỉm cười.
Bài làm 3
Kỉ niệm của những ngày thơ ấu đã qua luôn ở trong tâm trí mỗi người. Hai tiếng “ngày xưa” thật thiêng liên và huyền diệu biết bao! Mỗi khi nhắc tới nó, bao kí ức tuổi thơ lại ùa về trong tôi.
Kỉ niệm tuổi thơ tôi gắn hình bóng bà – cái bóng gầy gầy, xiêu xiêu bước đi trên con đường thân quen. Bà như một bà tiên hiền từ, nhân hậu dạy cho tôi những bài học vô cùng quý giá.
Khi tôi lên năm, bà tặng tôi một con lật đật màu đỏ. Ngày đó, tôi có rất nhiều đồ chơi nên ít khi chơi con lật đật đó mà cứ vứt lăn lóc ở xó nhà. Lâu dần, bụi bặm bám đầy con lật đật. Nhưng bà không hề trách mắng tôi nửa lời mà chỉ lặng lẽ đem con lật đật ra “tắm” và kì cọ sạch sẽ.
Khi đi học về, tôi vô cùng ngạc nhiên thấy con lật đật ngồi trong tủ kính, miệng cười tươi xinh, đôi mắt đen, tròn và to thật dễ thương. Tối hôm đó, bà đem con lật đật ra, đặt lên bàn. Bà đẩy nhẹ, con lật đật lắc lư, lắc lư mãi nhưng không hề bị ngã, dù nghiêng ngã đến mấy, nó cũng chỉ lắc lư một lúc rồi lại đứng vững. Bà nhìn tôi âu yếm và bảo:
– Cháu hãy học con lật đật nhé! Sau này, có lúc, cuộc sống sẽ làm ta nghiêng ngả, nhưng điều quan trọng nhất là cháu phải tự đứng lên. Hãy nhớ lời bà, đừng lãng quên con lật đật. Nó sẽ dạy cháu cách sống, cách làm người …
Một con lật đật mà lại có thể dạy cách sống, cách làm người cho tôi ư? Câu nói đó của bà có thể sẽ mãi chìm vào lãng quên nếu như không có một ngày … Cả thế giới đối với tôi như sụp đổ. Trời đất như tối sầm lại, quay cuồng. Bà rời bỏ thế giới này để tới một nơi xa xôi, vĩnh hằng. Cả gia đình, họ hàng tôi đều đau buồn tiếc thương bà. Mẹ an ủi tôi:”Thôi, đừng buồn nữa con ạ! Bà bay, lên mặt trăng làm bạn với chị Hằng, chú Cuội mà thôi”. Tôi nhớ quá vòng tay yêu thương, cái nhìn âu yếm, thân thương, nụ cười đôn hậu, giọng nói trầm ấm với lời ru chan chứa yêu thương và những câu chuyện cổ tích của bà. Những giọt nước mắt lăn dài trên má tôi. Tôi chợt nhớ đến con lật đật mà bà đã tặng và dạy tôi cách chơi. Tôi ôm chặt con lật đật mà lòng bà da diết khôn nguôi. Mấy năm đã trôi qua, nhưng món quà thân thương của bà vẫn luôn ở bên tôi.
Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, tôi sẽ ước cho thời gian trở lại để tôi được nhìn thấy bà, được bà âu yếm, vỗ về. Đêm nay, trăng thật sáng. Tôi nhìn trăng, lòng thâm nói: “Bà ơi, cháu sẽ không bao giờ quên lời bà dặn. Dù gặp bất cừ thử thách nào, cháu cũng sẽ không gục ngã. Cháu sẽ học cách tự đứng dậy như con lật đạt, bà nhé!”. Chắc rằng ở nơi xa ấy, bà cũng nghe được những lời tâm sự của tôi.