Bài làm 1
“Sào, Do bằng có tái sinh
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”
“Côn Sơn ca “viết theo thể điệu “ca khúc” cổ điển, gồm có 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất 4 chữ, câu dài nhất 10 chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Dịch giả đã chuyển diệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát; một bản dịch thơ khá hay về “Bài ca Côn sơn”.
Đoạn thơ sau đây là phần đầu 12 câu trong “Côn Sơn ca” được dịch thành 8 câu thơ lục bát nói về vẻ đẹp hữu tình của Côn Sơn và thể hiện niềm yêu thích, say mê của ức Trai được giao hòa giao cảm với suối, đá và thông, trúc.
“Côn Sơn suối chảy rì rầm,
……………………………………..
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”
Côn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư trong dãy núi Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống với mẹ và ông ngoại tại đây. Vì thế, nhà thơ coi Côn Sơn là “quê cũ” với bao tình mến thương:
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
(…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng đào?
“Côn Sơn ca “là bài ca giao cảm với thiên nhiên cũng là bài ca tâm trạng thế sự, triết lý về cuộc đời, về nhân sinh.
Đoạn thơ cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: đá, thông, trúc. Cứ 3 câu thơ nói lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Cảnh thứ nhất là tiếng nước chảy cứ róc rách mà nhà thơ thích thú “cho là đàn cầm” Nhạc của suối để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ẩn dụ “đàn cầm” biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của “ta”.
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền”
(Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai)
Cảnh đẹp thứ hai là đá. Đá được mưa xối làm cho phẳng lì, rêu phô màu xanh biếc, “ta cho là đệm chiếu”. Đá đã trở thành một phần cuộc đời ức Trai, để làm chiếu thảm, nghỉ ngơi ngồi ngắm cảnh suối rừng. Các từ ngữ “Côn Sơn có”, “ta cho là…” được điệp lại 2 lần, làm cho nhạc điệu bài ca trở nên du dương trầm bổng, biểu lộ niềm vui thú, say mê. Ẩn dụ “đệm chiếu “ (đạm tịch) thể hiện một tâm thế nhàn:
“Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi dạm tịch”
(Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm).
Cảnh đẹp thứ ba là thông. Đã bao đời nay, thông Côn Sơn đã đi vào lịch sử và hồn người. Thông bát ngát như “muôn chiếc lọng xanh rủ bóng “, là nơi “ta tha hồ nghỉ ngơi…”. Bóng thông, màu xanh của thông như chở che. Nhà thơ ngắm thông, đến với thông với bao niềm vui thỏa thích, tin cậy:
“Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yểm tức kì trung”.
(Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát tư lên ta nằm).
Ẩn dụ “muôn dặm chiếc lọng xanh rủ bóng “ là một hình tượng mĩ lệ gợi cảm. Thông tượng trưng cho đấng trượng phu coi thường sương tuyết đã trở thành tri kỉ của nhà thơ.
Cảnh đẹp thứ tư là trúc. Trúc Côn Sơn điệp trùng nghìn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, “ta tha hồ ngâm nga”. Màu xanh của trúc đã tỏa mát tâm hồn ức Trai. Trúc quân tử đa trở thành bạn tri âm, san sẻ, cảm thông niềm vui, nỗi buồn của “ta” trong những tháng ngày về Côn Sơn ở ẩn:
“Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc”
(Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
Nếu phần sau bài ca mang tính triết lí biểu lộ một nhân cách cao khiết của kẻ sĩ, thì phần đầu lại dào dạt chất trữ tình. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa giao cảm, để “ta cho là đàn cầm “, để “ta” cho là đệm chiếu để “ta tha hồ nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “ta tha hồ ngâm nga” giữa nghìn mẫu trúc. Các ẩn dụ tạo nên những hình tượng mĩ lệ: suối là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là những chiếc lọng xanh rủ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống; tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha đằm thắm. Một cách viết trùng điệp tài hoa. Chữ “ta “ xuất hiện 4 lần, kết hợp với các điệp ngữ: “Côn Sơn có…”, “trong núi có…”, “trong rừng có…”, “ta cho là…”, “ta tha hồ…” đã tạo nên âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha của “Bài ca côn Sơn”.
“Ta” là chủ thể trữ tình của bài ca, chính là ức Trai tiên sinh. Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên; suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi chỉ là một. Chữ “ta “trong thơ Nguyễn Trãi rất hồn nhiên, dung dị và biểu cảm:
“Âu lộ cùng ta dường có ý
Đến đâu thì thấy nó đi theo”
(Tự thán -31)
“Rùa nằm hạc lẩn vui bè bạn,
ủ ấp cùng ta làm cái con”
(Ngôn chí-20)
(Âu lộ: âu là chim biển, lộ là con cò; cái con là mẹ con)
Nhạc của “Bài ca Côn Sơn “ là nhạc của tâm hồn, một tâm hồn thanh cao và trong sạch. Có thể nói “Côn Sơn ca” là bài ca của sự sống; sự sống được ướp hương sắc của suối rừng đất nước quê hương.
Bài làm 2
“Côn Sơn ca” là bài thơ của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữHán viết theo thểthơ khác và khá dài. Ởđây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thểthơ Lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc:“Côn Sơn suối chảy rì rầm,Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”VềNguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụtá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thếkỉXV. Nhưng khi hòa bình trởlại, đất nước đi vào công cuộcxây dựng và phát triển thì ông bịghen ghét, nghi ngờbởi những kẻxấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan vềởẩn. Sau đó, ông lại bịchết thảm thương trong vụán LệChi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thếgiới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hóa. Bài thơ ‘‘Côn Sơn ca” có thểđược ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan vềnghỉtại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉniệm từthuởấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thủy hữu tình. Đây là đất được phong của quan tư đồTrần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan Tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻsống ởđây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi vềCôn Sơn như vềvới nơi chôn nhau, cắt rốn, vẻvới bạn bè tri kỉtri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vịdanh nhân văn hóa bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài “Côn Sơn ca” là tiếng nói cất lên từtrái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi.Trước hết,chúng ta cần hiểu đại từ“ta” trong đoạn thơ là đểchỉai ? “ta” chính là Nguyễn Trãi. Trong đoạn thơ tám dòng lục bát mà xuất hiện năm lần đại từ“ta”. “Ta” hiện ra liền mạch, nối tiếp trong những dòng thơ tám âm tiết, riêng dòng thứsáu “ta” điệp hai lần liền: “ta lên ta nằm”. Nếu đểý sẽthấy kết cấu đoạn thơ khá chặt chẽ. Câu sáu tảcảnh, câu lăm xuất hiện “ta” với những hành động cụthểmang ý nghĩa tác giảtựhọa chân dung mình. Điều đó gợi cảm giác giữa thiên nhiên cây rừng, núi đá, suối reo của CônSơn, hình ảnh Nguyễn Trãi thấp thoáng, đan cài, vấn vít, hòa quyện không phút nào rời xa. Con người và thiên nhiên như muốn nhập làm một, tạo thành sựsống của toàn cảnh Côn Sơn.
Bài làm 3
Học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ "Côn Sơn ca" vào số 87 "Ức trai thi tập" (Sách Nguyễn Trãi toàn tập" – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1976). Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể ca gồm 36 câu, câu ngắn nhất 4 chữ, câu dài nhất 10 chữ, phàn lớn là ngũ ngôn và thất ngôn. Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, 26 câu; theo chỗ chúng tôi biết, trong các bản dịch "Côn Sơn ca" thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là "quê cũ" của mình. Trong "Ức Trai thi tập" và "Quốc âm thi tập", ông có nhiều bài thơ Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: "Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý" (Về Côn Sơn làm trong thuyền). Làng quê mới qua, như thấy chiêm bao đến: “Hương lý tài qua như mộng đáo” (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác).
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
(…)Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ.
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?" ("Mạn thuật" – 13)
"Côn Sơn ca" là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời.
1. Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:
"Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch…”
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm", để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc găn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
"Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn".
Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê nhớ luống cúc vười cũ:
"Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao" ("Ngày thu ngẫu nhiên làm"- Thơ dịch) Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm".
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
2. Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:
"Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?"
Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ "Bất quy khứ lai" lấy cảm hứng từ bài "Quy khứ lai từ" của Đào Tiềm một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ương cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: "Dưới công danh đeo khổ nhục” (“Ngôn chí” -2), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn" ("Mạn thuật"-5). Người anh hùng thuở "Bình Ngô" đã từng "Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời" thế mà giờ đây tự trách mình "Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?", điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần "thanh chức". Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền: "Ngoài n
ăm mươi tuổi ngoài chưng thế,
Ắt đã trong bằng nước ở bầu". Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: "Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc
đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: "Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng"; ông tự cho mình là con ngựa già "còn kham rong ruổi". là cây thông qua năm rét mà "còn dạn tuyết sương". Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong "Côn Sơn ca":
"Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?" "Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực qúa, thanh liêm qúa…" (Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở "bình Ngô".
"Côn Sơn ca" còn hàm chứa triết lý về cuộc đời của Ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quí, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quí đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:
"Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan".
Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung qui chỉ là "đều làm cho thoả được như ý mình". Kiếp người khác nào "cây cỏ",
đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mấy núi, trăng ngàn:
"Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh".
Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì"("Cung oán ngâm khúc"). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:
"Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh". Nguyễn Trãi viết "Côn Sơn ca" trước bao lâu vụ án Lệ chi viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, toả rộng trong tâm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên Ức Trai mới có suy ngẫm ấy. Về một phương diện khác, triết lý về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử "Anh hùng di hận kỷ thiên niên")("Quan hải").
3. Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:
"Sao, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn".
Sao Phủ và Hứa Do hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kỳ Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hoà với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai Người Hiền xa xưa, mặt khác tự hào biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hòa với suối rừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của "Khúc hát bên ghềnh Côn Sơn" vậy.
Nếu văn (Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo…) là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ (Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập) là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. "Côn Sơn ca" là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp ngươi hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của Ức Trai. Triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca thật ra không có gì mới. "Thân cát bụi lại trở về cát bụi" (Kinh Thánh) "Sinh tồn hoa ốc xứ – Linh lạc qui sơn khưu (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán). “Xử thế nhược đại mộng- Hồ vị lao kỳ sinh?”(Sống ở đời như giấc mộng lớn – Tội chi vất vả đời mình – Lý Bạch)v.v… có điều, qua “Côn sơn ca”, ta thấy hồn thơ của Ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kịch, thương đời người cát bụi. Chất triết lý “Côn Sơn ca” giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta…