Bài làm 1
Nền độc lập, tự do mà chúng ta được sinh sống, hưởng thụ ngày hôm nay vốn được đánh đổi bởi bao nhiêu mồ hôi xương máu bao thế hệ đi trước. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đầy gian khổ, quân và dân Việt Nam đã vô cùng anh dũng đấu tranh, dâng hiến cả tuổi xuân, cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng của cả dân tộc. Trong chiến tranh, không chỉ có những người lính cầm súng chiến đấu nơi chiến trường ác liệt mà ngay cả những người lính lái xe trong kháng chiến cũng đều là những người anh hùng xuất chúng của thời đại Việt Nam lúc bấy giờ. Viết về những người lính lái xe, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã vẽ ra một bức chân dung về cả diện mạo và tinh thần vô cùng sống động, sâu sắc qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Những người lính lái xe không chỉ là những người chiến sĩ anh dũng, quả cảm trong đấu tranh, góp phần giải phóng cho dân tộc Việt Nam mà họ còn là “thần tượng” anh hùng cho những thế hệ trẻ Việt Nam không chỉ ở thời điểm đó mà cả thời đại ngày nay. Và được gặp gỡ với những người lính lái xe là điều không tưởng, có được cơ hội có một không hai đó tôi đã vô cùng hào hứng và vui mừng nói chuyện và được nghe những điều tâm sự vô cùng chân thành của những người lính ấy. Đầu tiên, gặp những người lính lái xe, tôi đã hỏi về những chiếc xe vô cùng độc đáo, có thể nói là “có một không hai” mà những người lính lái xe lái trong kháng chiến chống Mĩ. Những người lính vô cùng chân thật và cởi mở, các anh đã nói và mô tả rất chi tiết về chiếc xe “huyền thoại” ấy:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Theo lời của những người lái xe, thì những chiếc xe không kính vốn từng là những chiếc xe lành lặn như bao chiếc xe khác. Nhưng từ khi những chiếc xe cùng những người lính trên hành trình tiến vào miền Nam ruột thịt thì bị sự ác liệt của chiến tranh làm cho thiếu thốn, mang một hình dáng độc và lạ. Những chiếc xe vốn dùng làm phương tiện để vận chuyển lương thực, quân lương và đưa những người lính chi viện từ miền Bắc và cùng nhân dân Miền Nam kháng chiến. Nhưng đế quốc Mĩ muốn ngăn cản sự chi viện này, chúng dùng bom đạn để hủy diệt tất cả, những chiếc xe cũng anh hùng, ngạo nghễ như chính những người lính quả cảm vậy, đi ra khỏi khó lửa chiến tranh, những chiếc xe bị mất kính, bị làm cho méo mó biến dạng nhưng nó vẫn đồng hành cùng những người lính đẩy mạnh quá trình chi viện.
Những chiếc xe không kính đồng hành cùng những người lính lái xe trên mọi nẻo đường, các anh nói coi những chiếc xe không kính như những người đồng đội, đồng chí thực sự. Những chiếc xe cùng các anh vượt qua mưa bom bão đạn để tiến vào miền Nam với một tư thế ung dung, ngạo nghễ của người làm chủ. Dù có bom giật súng rền thì các anh cũng không mảy may sợ hãi, lo lắng mà vẫn một lòng “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, bởi chính tinh thần quật cường, tình yêu nước ở các anh đâu dễ bị khó khăn hạ gục. Những người lính hiện lên như những người anh hùng với sự kiêu bạc, bất khuất, nhưng họ cũng nói với tôi về những khó khăn mà họ phải trải qua khi lái những chiếc xe không kính, đây là những tâm sự rất thực của họ, vì dẫu có quật cường đến đâu thì họ cũng chỉ là những người trần mắt thịt, cũng có những cảm xúc như những con người bình thường.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Những chiếc kính xe vốn có chức năng chắn gió, tránh nắng cũng như những vật cản có thể gặp trên đường, bảo vệ cho những người lính lái xe, nhưng những chiếc xe mất đi lớp chắn bảo vệ ấy lại làm cho những người lính gặp khó khăn trong việc điều khiển chiếc xe. Những chiếc xe không kính làm những làn gió, làn bụi trên đường vô tư bay vào mắt, vào mặt khiến cho đôi mắt cay xè, gây khó khăn trong việc quan sát và lái xe, nhưng những người lính đã nói với tôi : “Những cơn gió vào làm mắt chúng tôi cay xè, nước mắt cũng chảy ra làm mờ đôi mắt. Nhưng không hiểu sao đôi mắt bị cản trở thì trái tim của chúng tôi lại thấy sáng lạ thường. Lúc ấy dường như tôi không dùng mắt để quan sát nữa mà chúng tôi đi theo lời dẫn dắt của trái tim, trái tim của chúng tôi hướng về miền Nam, dẫn bước chúng tôi vào miền Nam ruột thịt.
Trong cái khó khăn lại nảy ra những điều thú vị, đối với những người lính, những khó khăn trong khi làm nhiệm vụ lại được chính sự lạc quan hóa giải làm thành những điều thú vị trong cuộc sống. Không có kính thì không chỉ có gió mà những chú chim trời, những ngôi sao trời cũng như sa như ùa vào buồng lái, cùng với những người lính lái xe trên cuộc hành trình dài. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất nhưng những người lính cũng không hề gục ngã, chán chường mà ngược lại những nét lạc quan, đáng yêu ở những người lính khiến cho chúng ta càng thêm trân trọng họ hơn:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chừa cần rửa, phì phèo điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Trong cái khốc liệt của chiến tranh, những người lính vẫn vui tươi, lạc quan của những người làm chủ, họ không vì những khó khăn làm vơi đi những nét yêu đời, yêu cuộc sống. Họ chung sống với những khó khăn, cùng nhau chia sẻ những khó khăn đó nên những khó khăn vô hình trở nên nhạt nhòa, nhường lại những phút giây yêu đời cho những người lính, đó là khi bụi phun khiến mái tóc bạc như những người nhà, đó là những khuôn mặt lấm lem bụi khiến cho họ cười ngặt nghẽo khi nhìn thấy nhau. Sự yêu đời, lạc quan của những người lính làm cho không khí của chiến tranh cũng vơi bớt đi những ác liệt, gian nan.
Cuộc gặp gỡ với những người lính tuy không dài nhưng tôi cũng có đủ thời gian để lắng nghe những tâm sự chân thành của những người lính lái xe, cuộc sống trong chiến tranh tuy có những khó khăn, gian khổ mà bất cứ lúc nào cũng có thể hi sinh nhưng họ không hề bị khuất phục, họ đối mặt với những khó khăn bởi tinh thần lạc quan, yêu đời và trên tất cả, họ có lí tưởng cao đẹp, lí tưởng giải phóng miền Nam ruột thịt, bởi vậy mà dẫu có mưa bom bão đạn thì họ vẫn có thể đương đầu. Như chính những lời tâm sự:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài làm 2
Chiến tranh đã qua từ rất lâu rồi, và có lẽ những người trẻ tuổi như tôi không bao giờ hiểu được cái khó khăn, gian khổ của công việc cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước. Nhưng qua một lần nói chuyện, chỉ một lần gặp gỡ tình cờ đã cho tôi hiểu ra rất nhiều điều và thực sự cảm nhận được cuộc sống những ngày đạn bom gian khổ ấy,…
Những bánh xe đang lăn đều, lăn đều và chậm rãi khỏi nhà ga, chuyến tàu Bắc Nam bắt đầu cuộc hành trình của nó… Con tàu lao nhanh dần, lòng tôi bỗng thấy buồn lạ, cũng phải thôi, đây là lần đầu tiên tôi đi xa nhà như vậy, hơn nữa lại đi một mình. Trên một chuyên tàu toàn người xa lạ, con bé mười lăm tuổi như tôi bỗng thấy chạnh lòng, sống mũi cay cay, hai mắt đỏ dần, trong lòng rơn lên một nỗi nhớ nhà, nhớ ba mẹ da diết. Người đàn ông ngồi bên cạnh, tôi mạn phép tôi gọi người ấy là “bác”, dường như đã cảm nhận được tôi đang nghĩ gì. Bác trạc ngoài sáu mươi, mái đầu bạc trắng, làn da đồi mồi, hơi rám nắng, dáng người to khoẻ. Nhìn những chiếc huân chương đeo trên ngực bác, tôi đoán, bác là một cựu chiến binh. Bác quay sang tôi bắt chuyện :
– Buồn hả cháu ? Nhớ nhà phải không ? Đợt mới nhập ngũ, bác đã từng có cảm giác như cháu bây giờ. Nhưng mau qua thôi, nó rèn luyện cho cháu tính tự lập, xa bố mà sống vẫn tốt.
Tôi nhìn bác cười rồi khe khẽ hỏi :
– Bác từng đi lính ạ ?
Bác nhìn tôi rồi cười phá lên :
– Đúng rồi cháu ạ ! Bác từng là một người lính đấy. Người lính lái những chiếc xe rất đặc biệt, những chiếc xe không kính cháu à. Ngày ấy Mĩ nó đánh ta ác liệt lắm, bác xung phong lên đường nhập ngũ. sẵn trong người tính thích mạo hiểm, lại biết lái xe, binh đoàn phân công bác vào tiểu đội 71A, lái những chiếc xe tải qua con đường Trường Sơn, chi viện súng, đạn, lương thực, dược phẩm cho đồng đội ở chiến trường miền Nam. Ngày ấy đường đi vất vả lắm cháu ạ, đâu có được đổ bê tông phẳng lì như bây giờ, lại còn đi đường rừng, tối om, không cẩn thận là lao xuống vực như chơi. Xe lại không có kính, bộ phận, tua vít nên lổng lẻo, tạo ra tiếng động rất ghê tai. Thế mà đi nhiều, nghe nhiều rồi cũng quen cháu ạ ! Có những đêm lái xe qua rừng, chim thú các loại cứ bay ào ạt vào khoang lái, nguy hiểm lắm, nhưng cũng thấy thú vị. Hay rổi gió, bụi, mưa, lá cứ bay vào tới tấp, cay xè, trắng xoá mặt mày là chuyện bình thường…
Bác dừng lại uống ngụm nước… Ngay từ bé, đứa con gái như tôi đã rất thích những trò đánh trận, múa kiếm, bắn súng đủ các kiểu,… nhưng chưa hề được nghe tới bom đạn, hay những vất vả, cực nhọc mà mỗi người lính Trường Sơn phải trải qua, dù là trực tiếp chiến đấu hay là những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm như bác. Tôi háo hức hỏi :
– Vậy đi chiến trường như thế bác có thấy nhớ nhà nhiều lắm không ạ ?
– Có chứ cháu, nhớ nhiều lắm, nhiều khi nhớ tới mất ăn mất ngủ. Lo lắng không biết mẹ mình giờ này làm gì, bom thả có mau chân mà chạy xuống hầm hay không ? – Ánh mắt buồn của bác như rạo rực lên. – Nhưng mà cũng được các bác cùng đơn vị an ủi và giúp đỡ nhiều lắm cháu ạ. Mấy anh em tuy mới gặp nhau nhưng quý nhau và thương nhau lắm, coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà, có cái gì ngon hay mẩu thuốc lá là mấy anh em đều chia nhau hết, cực nhọc nhưng vui. Rồi những hôm lái xe, gặp anh em đồng đội trên đường đi, cứ thế mà mấy anh em tíu tít đứng bắt tay, ôm nhau rất tình cảm. Hình như có nhiều điểm chung là lòng yêu đất nước, căm thù bọn giặc và những đồng cảm về nỗi nhớ nhà, tâm sự và ước mơ, hoài vọng của tuổi trẻ nên các bác hiểu nhau và quý nhau lắm. Nhờ thế mà thêm tự tin, dũng cảm hơn trên con đường chiến đấu, nhất định phải thắng lợi để về với gia đình, anh em sẽ gặp lại nhau để cùng thực hiện những dự định trong tương lai…
Câu chuyện của bác còn dài, còn dài lắm nhưng mới chừng kia thôi đã đủ cho tôi cảm nhận về những người chiến sĩ, về những gì họ đã trải qua và về niềm tin, lòng lạc quan yêu đời của họ. Bánh tàu vẫn lăn, nhưng nó không gợi cho tôi cẫm giác buồn nữa, nó chỉ khẽ nhói lên trong người tôi một niềm vui khó tả, có lẽ là niềm vui được sống trong một thế giới hoà bình, niềm hạnh phúc về những gì mình đang có và tận hưởng…
Được gặp gỡ và trò chuyện với những người lái xe Trường Sơn năm xưa là may mắn của riêng tôi. Nó giúp tôi có thêm nghị lực và sức mạnh để hoàn thành những ước mơ của mình. Nó như một luồng sinh khí lan toả khắp người tôi, khiến tôi dũng cảm và có niềm tin hơn vào cuộc sống này. Và tôi hiểu ra một điều rằng : là người con của mảnh đất Việt phải chảy trong người dòng máu Việt. Bảo vệ, phát triển và xây dựng đất nước là nhiệm vụ tất yếu của tôi, cũng như của hàng vạn con người trẻ tuổi và cùng trang lứa khác…
(Nguyễn Huyền Trang, lớp 9M, Trường THCS Trưng Vương,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Bài làm 3
Trời hôm nay rét nhưng nắng ấm trải vàng trên đường phố, gió thổi nhẹ, lá rơi xào xạc. Lũ chúng tôi như chim sổ lồng, náo nức cùng Chi Đoàn trường đi thăm Viện bảo tàng Quân đội ở đường Điện Biên Phủ nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 – 12. Cứ tưởng chỉ là một phen được đi chơi vui vẻ, được thoát khỏi áp lực của mọi lời “giáo huấn” quen thuộc của bố mẹ, của những môn học, bài tập liên miên. Ai dè, đây lại là một buổi đi tham quan đầy ý nghĩa và cũng rất thú vị.
Bước vào bảo tàng là một khoảng sân rộng ngập tràn ánh sáng và khí trời. Trên thảm cỏ xanh và những lối nhỏ uốn lượn là xác máy bay của Mĩ bị bắn rơi trong cuộc xâm lược không phận đất nước đầy đau thương và căm phẫn chúng trước đây. Có những khẩu đại bác, những bệ pháo cao xạ của quân đội ta… Tất cả đã bị chiến tranh tàn phá, nắng mưa dội vào nên in dấu thời gian quá rõ nét.
Vào trong, bảo tàng có nhiều phòng, nhiều tầng, mỗi nơi là một chặng lịch sử của quân đội ta. Nơi thì khẩu súng kíp, súng trường tự tạo, nơi là cuộn dây, chiếc búa, lá cờ, cuốn sổ… bất cứ thứ gì cũng có dấu ấn của lịch sử, cũng gợi cảm xúc cho lũ trẻ chúng tôi vừa thương yêu, kính trọng chủ nhân của những hiện vật lưu trữ trên vừa thấy biết ơn sâu sắc những con người, những năm tháng của lịch sử hào hùng.
Xúc động hơn cả là khi chúng tôi đứng trước một chiếc xe ô tô vận tải. Biết được tên gọi của nó là qua cô hướng dẫn thuyết minh, còn nhìn nó thì như một khối sắt vụn, han gỉ, cũ nát. Nó như một sự cố gắng ghép lại để cho ra hình thù chiếc xe vậy. Lời giới thiệu đã cho ta biết được chiếc xe này đã từng chở khí giới, đạn dược, lương thực, quân trang, thuốc men tiếp tế cho chiến trường miền Nam trong suốt những năm chiến tranh chống Mĩ diễn ra ác liệt nhất. Cô hướng dẫn viên đã nói đó là những ngày tháng tuyến đường vận tải vào Nam không có giây phút nào ngớt bom đạn, pháo của kẻ thù. Không một cây số nào không bị bom địch dội xuống xé nát ra. Vậy mà cũng không có phút giây nào đoàn xe vận tải này dừng bánh. Máy bay đến, dội bom thì đoàn xe trú vào hang núi, rừng cây hoặc đứng im mà quanh xe cài kín lá ngụy trang. Máy bay đi, các anh chị thanh niên xung phong kịp thời san lấp, đánh dấu bom chưa nổ và chỉ đường cho đoàn xe tiếp bước. Có những hố bom không kịp san lấp, không đủ đất lấp, họ bắc những tấm ván xẻ cạnh miệng hố và xe cứ trườn chậm chạp hai bánh trên hai thanh gỗ đó, chỉ tích tắc sự mất tập trung, sự run sợ thì cả người chỉ đường bám vào cửa xe cầm đèn chỉ lối, người lái xe và xe đổ ụp. Họ không sợ chết mà chỉ sợ mất hàng hoá. Ai trong họ cũng hiểu rằng, hàng hoá là máu, tuyến xe lưu thông là mạch máu để nuôi chiến trường miền Nam. Nghe câu chuyện, chúng tôi lại nhớ đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật vừa được học.
Đứng lặng cạnh tôi có bác bộ đội già, bộ quân phục đã bạc như màu tóc, sự chăm chú ngắm nhìn chiếc xe như nhìn vào quá khứ xa xăm của bác khiến tôi tò mò quan sát. Tôi có cảm giác như giữa bác và chiếc xe có mối liên hệ nào đó ! Chợt nhận ra tôi, bác xúc động nói :
– Chiếc xe này là một “chiến hữu”, đến gần nó bác chẳng muốn rời, nó như thầm thì nhắc nhở bác về kỉ niệm xưa. Từ cái ngày bác cùng tiểu đội lính lái xe của mình trên đường ra trận…
Tôi vui sướng đến bất ngờ vì sự hi hữu mình có được, còn gì hơn khi tôi được đứng bên cạnh người lính lái xe năm Xitel, nhân vật trong Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Đó là một trong những người lái những chiếc xe độc nhất vô nhị trong chiến tranh ở Việt Nam cũng như lịch sử chiến tranh trên thế giới, những chiếc xe bị tàn phá đến nỗi “kính vỡ”, “không đèn”, “thùng xe xước”. Ai ngờ được những con người, những hiện vật trong văn học lại đang ở bên cạnh tôi, không giảm đi tí nào về sự chân thực của nó mà làm trái tim tôi đập nhanh hơn vì nỗi bồi hồi, xúc động sâu sắc.
Đây là một con người bằng xương bằng thịt của chiến tranh, của thi ca, đại diện cho hàng ngàn người lính khác mang âm vang khói lửa của chiến trường khốc liệt nhưng vẫn rất hồn nhiên, yêu đời. Giọng kể chuyện của người lính lái xe như lời thầm thì của năm tháng vọng lại :
– Lời thơ là sự thật nóng bỏng và vinh quang. Nhà thơ đã cùng đơn vị bác đi một chặng dài gian khổ, ác liệt, cận kề gang tấc với cái chết. Chẳng ai lại có thể nhận ra một nhà thơ nổi tiếng, một người lính can trường, một trái tim nhạy cảm và sẻ chia như thế trong hình ảnh của cậu tân binh mới nhập ngũ gầy gò, cao lêu đêu với chiếc ba lô toòng teng sau lưng đó. Khi biết bác là sinh viên đại học Bách khoa, “xếp bút nghiên” theo tiếng gọi của Tổ quốc, cậu lính trẻ mừng lắm, cứ quấn lấy bác và hỏi lấy hỏi để. Vui chuyện cứ trả lời thẳng tưng, chứ biết câu chuyện của mình vào thơ thì phải “uốn lưỡi” bảy lần như các cụ đã dặn chứ.
Quả thật, khi nhìn thấy những chiếc xe từ mới tinh đã bị tàn phá đến dị dạng như vậy, ai mà không ngán. Nhưng tốc độ của chiến trường, tiếng gọi hào sảng của chiến thắng chả cho ai kịp đợi sửa chữa hay đổi xe mới… Chiến trường cần tiếp tế, người lính mong muốn lập chiến công, mong muốn ngày chiến thắng mau tới… thì phải hối hả lên xe mà đi. Qua đồi cao, dốc đứng, rồi qua ngầm, qua vực càng dễ luồn lách, dễ tránh né, lại còn dễ nguỵ trang, dễ ẩn vào bờ bụi nữa.
Chỉ có ngồi trên chiếc xe như vậy, khi chiến trường rộn rã chiến công, khi cả nước náo nức lên đường, mới có niềm vui sướng, hả hê của người lính lái xe thời chiến. Không có kính, các bác “nhìn đất”, “nhìn trời” càng rõ, càng nhìn thấy con đường chạy thẳng tắp. Tuy bụi bặm bay mù trời nhưng nó lại đưa “cánh chim” kiếm tìm “sa vào” vào buồng lái bầu bạn, chào đón người chiến sĩ. Ban đêm “sao trời” cũng ùa vào bằng một tình yêu thương, chia sẻ. So với sự khó chịu, bẩn thỉu của bụi thì các bác “được” nhiều hơn đấy chứ ! Có lẽ hiểu sâu sắc được điều đó nên câu thơ của cậu “lính thi sĩ” đó mới tự tin và ngang tàng như thế :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.
Nắng thì vậy, mưa thì cũng gian khổ lắm. Mưa tuôn xối xả, gió tạt nước mưa vào buồng lái, các bác phải vừa lái xe vừa vuốt mặt liên tục. Nước mưa tuy mát cho da thịt nhưng vào mắt thì cay xè, xót lắm. Lúc đó, cậu lính Duật cứ hỏi bác sao không đứng lại đợi tạnh, cậu ta có biết đâu đì tranh thủ lúc mưa là an toàn nhất, thẳng đường mà tiến, máy bay và bom Mĩ sợ mưa chứ xe này sợ gì. Bác gắt lên : “Không có kính càng tốt, chốc tạnh thì gió lùa vào sẽ làm chóng khô quần áo, đỡ phải giặt giũ, hong phơi”.
Nhất là lúc gặp đoàn xe đổ xong hàng quay ra vòng tiếp, không có kính chả phải dừng xe, mở cửa, cứ giơ tay qua cửa xe vỡ kính mà bắt tay nhau, chào nhau, hổi han, chúc nhau thật vui vẻ, náo nhiệt. Thú vị nhất, gương mặt mỗi người trở thành tấm gương để soi chung nhau. Bình thường, mỗi người một vẻ, qua chiến tranh các bác đều có chung một khuôn mặt : tóc tai, mặt mũi bụi phủ trắng như mặt nạ ông địa… nhìn nhau mà người này cứ tưởng người kia biến dạng như thế và khi hiểu ra được… một trận cười sảng khoái vỡ ra vang dội cả con đường, làm chim rừng giật mình gọi nhau, bay từng đàn chạy trốn. Bom đạn nhiều khiến chúng chẳng phân biệt được âm thanh rộn rã của niềm vui với tiếng rền của sự chết chóc, tàn phá.
Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời” trong thơ của Phạm Tiến Duật là hình ảnh có thực và gợi nhớ vô cùng. Đến địa điểm tập kết, cả tiểu đội lại hợp sức đào bếp để nấu nựớng. Loại bếp này, bè bạn năm châu phục lắm. Nấu mà không lộ ánh lửa, khói lại chia nhỏ, tản ra địch không phát hiện được. Gạo mang theo, rau vào rừng hái, múc nước suối, bẻ cành khô… bữa cơrn kham khổ nhưng ngon lành và vui vô vùng. Thời chiến có gian khổ nhưng lại có niềm hạnh phúc mà thời bình khó tìm lại được, cả tiểu đội quây quần xì xụp trong cơn đói ngấu của sức trẻ… như một gia đình nhỏ, cái gia đình ấy bây giờ già nửa là nằm lại nơi chiến trường, còn lại vài ba người như bác, đều thương tật cả. Hai người bạn của bác đang được nhà nước nuôi tại Trại thương binh Thuận Thành (Hà Bắc) còn bác đang phải “chung sống hoà bình” với ba mảnh đạn nằm ở những nơi hóc hiểm trong cơ thể mình, không thể phẫu thuật được. Những lúc trở trời, vết đau réo gọi, quặn thắt, chẳng lúc nào nhớ tới những kỉ niệm năm xưa bằng khi ấy. Nói như cậu “thi sĩ” khoác áo “chiến sĩ” về nỗi nhớ đó là :
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Bác nói bác vẫn đang còn giữ một kỉ vật nhỏ do người đồng đội gửi bác lúc nhắm mắt. Một chiếc hộp bút tự tạo từ mảnh máy bay địch cháy rơi ở trong rừng. Không kịp dặn nốt địa chỉ của đứa con chưa có khai sinh ở một ngôi làng nào đó trên đường ra trận… Bác vẫn không bỏ qua một dịp nào, một cơ hội nào để tìm cho ra. Bác bảo, để khi gặp lại đồng đội không thấy hổ thẹn.
Bác nghẹn ngào nói với tôi : “Vinh quang và thắng lợi nào mà không trải qua mất mát đau thương.. Mồ hôi, máu thịt của những người năm xưa đã đơm hoa kết trái nên độc lập tự do hôm nay. Bác đã may mắn được quay trở lại mái trường xưa rồi trở thành kĩ sư của một nhà máy quân đội lớn. Bác luôn tâm niệm phải sống và làm việc bù cho cả những người không trở về nữa nhưng cũng chẳng còn nhiều thời gian, chỉ mong các cháu được nhà trường dạy dỗ, đào tạo sao cho tiếp bước cha anh. Quyền lợi của cuộc sống hạnh phúc hôm nay sỗ đặt trên vai các cháu trách nhiệm lớn lao với dân tộc, với lịch sử, với những người không tiếc máu xương năm xưa…”.
Bác đặt nhẹ tay lên vai tôi như tin tưởng gửi gắm. Tôi thật sự xúc động và tự hào về lịch sử dân tộc, về thế hệ cha anh xưa kia. Bỗng như thấy mình lớn hơn lên, tôi gật đầu và mỉm cười chào bác.
Cùng các bạn trên đường về, lòng tôi thấy sung sướng vì hành trang của một buổi dã ngoại tôi đem về thật đáng quý biết bao, nó giúp tôi tự tin vào mình, hiểu rõ vai trò của việc phấn đấu rèn luyện ngày hôm nay. Tôi thấy mình trưởng thành lên nhiều quá. Biết là nhiệm vụ trước mắt còn nhiều gian nan nhưng tôi vững tin vì người “chiến sĩ – thi sĩ” năm xưa đã khẳng định :
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Nắng vàng và gió mát chia sẻ tâm tình cùng lũ học trò chúng tôi.
(Phạm Quỳnh Trang, lớp 9A4, Trường THCS Ngô Sĩ.Liên,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)