Trang chủ » Văn mẫu Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp Lửa – Văn 9

Văn mẫu Đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp Lửa – Văn 9

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa sẽ giúp các bạn hiểu hơn về tình cảm sâu sắc của người cháu đối với người bà kính yêu của mình!

“Bếp lửa” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Bằng Việt, được viết trong thời kháng chiến chống giặc, kể về tình cảm ấm áp giữa 2 bà cháu, cũng như những khó khăn gian khổ của tuổi thơ. Qua một câu chuyện giản dị, tác giả khiến người đọc cảm nhận được tình cảm gia đình thiêng liêng đã giúp ta vượt qua mọi khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Trong bài viết này, Lambaitap.edu.vn sẽ chia sẻ một vài bài văn mẫu đề tài đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp Lửa kể lại chuyện Bếp lửa cho các bạn tham khảo

Dàn ý đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa

I. Mở bài:

Giới thiệu về bản thân mình (chính là người cháu trong bài thơ)

II. Thân bài:

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi lên những kỉ niệm tuổi thơ trong tám năm sống với bà, làm hiện lên hình ảnh bà chăm sóc, lo lắng, vất vả tình cảm thương yêu của bà dành cho cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu trưởng thành đã hiểu thấm nhuần về cuộc đời của bà, về cuộc sống giản dị và cao cả của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi đến bà những yêu thương, nhớ nhung khi ở nơi tiền tuyến … Ví dụ về việc hình thành cách riêng:

– Hình ảnh bếp lửa gợi lên bao kỉ niệm, cảm xúc về bà.

– Nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và hình ảnh của bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.

– Suy ngẫm về bà và cuộc đời của bà.

– Nỗi lòng của người cháu đã trưởng thành

Cách 2:

– Hình ảnh cái bếp gợi lên trong tâm trí tôi, nó từng giống như một thước phim quay chậm.

– Tuổi thơ tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn ác liệt.

– Tuổi thơ tôi ở bên bà, đầy ắp niềm vui và hạnh phúc.

– Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa – Bằng Việt. Yêu cầu sử dụng các yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm – Từ các kỷ niệm thời thơ ấubên bà, tôi lại nhớ về hình ảnh bếp lửa và về bà

5 – Giờ đây đã trưởng thành, nhưng tôi chẳng thể quên và không muốn quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa.

III. Kết bài:

Niềm khát khao, suy nghĩ của nhân vật từ hình ảnh người bà và bếp lửa

Bài làm 1 – đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa

 
Tôi đặt chân lên đất nước Nga thấm thoắt đã được bốn tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sáng, tôi thường vén rèm cửa sổ căn phòng kí túc xá sinh viên từ tầng năm để nhìn ra ngoài. Tuyết rơi trắng xóa mái vòm nhà thờ cổ kính, trên ngọn cây và mặt đường. Tôi rùng mình ớn lạnh trong mấy lớp áo len, áo khoác dày sụ. Trong tâm tưởng tôi hiện lên hình ảnh một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm ở quê nhà. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi chập chờn trên vách liếp. Ôi, trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa ấp iu nồng đượm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn lung linh trong kí ức đứa cháu đang sống xa quê hương, đất nước.
 
Quá khứ lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Đó là năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khiến cho hơn hai triệu người chết đói. Đây là hậu quả của chính sách cai trị tàn ác, vô nhân đạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam giai đoạn này. Giống như bao gia đình nông dân khác, gia đình tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cả người lẫn ngựa khô rạc mà đồng tiền kiếm được chẳng đáng là bao. Cảnh đau thương, tang tóc diễn ra khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rạ, đống trấu lớn để hơi nóng xua bớt đi tử khí. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói. Nghĩ lại, đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt muốn ứa ra.
 
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lấy chính quyền, chấm dứt ách nô lệ kéo dài gần thế kỉ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính phủ lâm thời được thành lập và lãnh tụ Hồ Chí Minh là vị Chủ tịch đầu tiên. Cả dân tộc hân hoan, phấn khởi trong niềm hạnh phúc vô bờ của cuộc sống tự do, độc lập.
 
Không lâu sau, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để tham gia vào sự nghiệp chống xâm lăng.
 
Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”
 
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn ra mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch, giết sạch đến đó, gây ra tội ác ngút trời đối với dân ta. Giặc càn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tản cư, dân làng lầm lụi kéo về, dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vãi tro than. Họ giúp bà cháu tôi dựng tạm túp lều tranh nho nhỏ góc vườn. Bà bình tĩnh dặn tôi: “Bố mẹ cháu ở chiến khu, bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng ở nhà, mọi chuyện vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm”. Tôi hiểu lòng bà, càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày chiến thắng; các con sẽ trở về đoàn tụ.
 
Suốt cuộc đời gian nan, lận đận, bà tôi tần tảo, chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy những tâm tình thiết tha của thời thơ dại. Giờ đây, tôi đã trưởng thành, được Tổ quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Bàn chân tôi đã in dấu trên những nẻo đường xa xôi. Mắt tôi đã được nhìn thấy nhiều điều mới lạ. Nhưng tôi không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: “Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa, truyền lại ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!”. Hình ảnh người bà kính yêu cùng bếp lửa hồng mãi mãi theo tôi suốt cả cuộc đời. ủ Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”
 

Bài làm 2 – đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp Lửa

 
Hồi ức về bếp lửa đã thổi luồng hơi ấm làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ quê có cha mẹ, có bà nội cứ day dứt hoài khôn nguôi. Nơi đó luôn vương vấn hình ảnh bà nội tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và toả ra luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng. 
 
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 
 
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 
 
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!… 
 
“Tôi nghĩ rằng, chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là những ấn tượng về nét riêng biệt mà thiêng liêng giúp tôi làm nên những vần thơ đầy cảm xúc đó”. Bên lửa và cùng với lửa, những người trong gia đình kể cho nhau nghe mọi chuyện trên đời, về sự khó khăn, may mắn và thành công. Không khí ấm cúng của gia đình Việt có lẽ không bao giờ thiếu lửa. Bên lửa muôn thuở vẫn là những người đàn bà mang dáng dấp và phong cách Việt Nam. Vì thế, đương nhiên, bà và bếp lửa trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cụ thể và trìu mến. Bà thổi hồn cho bếp, thổi vào đó tình cảm và trách nhiệm, lòng yêu thương cũng như sự hy sinh. “Tôi nhớ mãi hình ảnh bà đun bếp, phải khó khăn mới thổi được bếp lên, giữ cho lửa thật đều, thật đậm là cả một nghệ thuật”. Những người phụ nữ Việt Nam luôn là hiện thân của sự gắn kết cuộc đời mình với bếp lửa, với sự nồng nàn ấm áp của lửa và một niềm tin không thể chuyển lay. 
 
“Cho đến ngày hôm nay, qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, tôi vẫn không sao quên được hình ảnh bà và ngọn lửa trong trái tim bà. Bà và bếp lửa. Hai hình tượng ấy có lẽ đã thực sự làm nên dấu ấn trong cuộc đời tôi. Bây giờ, cuộc sống thay đổi quá nhiều, bếp lửa truyền thống không còn vẻ hữu dụng của nó trong cuộc sống thường nhật nữa. Nó đã bị thay thế bằng đủ kiểu bếp nhanh hơn, tốt hơn. Cảnh xúm xít thiêng liêng quanh bếp lửa gia đình bỗng trở nên hiếm hoi hơn. Ăn uống cũng không thành vấn đề gì nặng nề nữa, từ cơm cặp lồng, đến cơm hộp rồi cơm nhà hàng, tự nhiên lại chạnh lòng nhớ tới bàn tay cần cù của bà chăm sóc nấu nướng thưở xa xưa”. 
 
Nhắc đến bà, vẫn thấy đâu đây cái mùi khói lan toả từ bếp của bà, sống mũi nhà thơ dường như vẫn còn cay. Bếp lửa thực ra chỉ là bếp lửa thôi, nhưng hồn bếp vẫn đi cùng năm tháng với ông, vẫn gắn với toàn bộ cuộc đời thơ ca của ông: 
 
Giờ cháu đã đi xa 
 
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả 
 
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: 
 
Sớm mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?… 
 
Phải làm sao cho làn khói tan trong gió, mờ trong sương, khói ẩn vào cây, len vào rừng!”. Chính cái cay cực ấy, cái lui cui khó nhọc ấy – những kỷ niệm thú vị về một thời đạn bom mà những ai đã trải qua đều không thể nào quên được, đã tạo nên những cảm xúc để sau này.Tôi nhớ mãi câu chuyện rất nhân văn của nhà văn Nga Koronenko. Trên con thuyền lạnh lẽo, đầy sương mù, người lái thuyền liên tục động viên lữ khách rằng đằng kia có ánh lửa, sắp đến nơi rồi. Nhưng, càng đi, ngọn lửa càng xa, mãi mãi không bao giờ đến được. Đó là một triết lý mang tính nhân đạo cũng có cái gì đó thật hoài niệm xót xa. Sự ấm cúng, tưởng có thể với tới, nhưng chẳng phải dễ dàng gì…
 

Bài làm 3 – hóa thân thành nhân vật người cháu trong Bếp Lửa

 
Trong cuộc đời ,ai cũng có cho riêng mình những kỉ niệm thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng. Những kỉ niệm ấy là thiêng liêng và thân thiết nhất . Nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời . Tôi nhận thức sâu sắc điều đó nhờ văn bản “ Bếp lửa” của Bằng Việt . Hình ảnh người bà, bếp lửa  và tình bà cháu in đậm trong tâm trí tôi . Và sự ám ảnh đó theo tôi vào giấc ngủ …
Thời gian trôi , tôi là một sinh viên ngành luật tại Maxcơva .Tôi có người bạn rất thân thiết tên là Việt Bằng.Việt Bằng rất nổi tiếng trong giới sinh viên du học tại Liên Xô. Anh làm thơ rất hay.Tôi đã đọc và rất thích bài thơ “ Bếp lửa” của anh.
Nhân dịp tết cổ truyền ở quê nhà, nhóm sinh viên xa nhà chúng tôi tổ chức nấu bánh chưng  , bánh tét . Bên ánh lửa bập bùng tôi được nghe câu chuyện về tuổi thơ của anh Việt Bằng . Anh kể trong nỗi xúc động về tuổi thơ và nỗi nhớ nhung về người bà giấu yêu của mình.
Bằng giọng chậm rãi bùi ngùi , đôi mắt như đắm chìm trong quá khứ ,Anh tâm sự :
– Các bạn ơi ! Thời gian trôi qua hơn hai mươi năm rồi . nhưng mỗi lần nhìn bếp lửa tôi lại nhớ về bếp lửa , quê hương ,bếp lửa tuổi thơ .hồi ức bếp lửa làm bớt cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê , nỗi nhớ quê ,cha mẹ . Ở trời Tây này, tuyết thường rơi trắng xoá. cái lạnh ở nơi đây làm tôi liên tưởng đến bếp lửa của quê nhà chờn vờn trong sương sớm. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi trên vách bếp. Bếp lửa luôn vương vấn hình ảnh bà nội tôi tần tảo sớm hôm . Dáng  bà cong lưng thổi bếp ,thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa luồng hơi ấm nồng nàn . Hơi ấm của tình thương, của niềm tin và hi vọng . Ôi hình ảnh bếp lửa vẫn lung linh trong kí ức của dù trải qua bao mưa nắng thời gian. Tôi nghĩ rằng chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là ấn tượng thiêng liêng mà tôi không bao giờ quên được.
Nói đến đây anh đừng lại và chìm trong suy tư. Tôi không muốn phá vỡ mạch suy nghĩ của anh nhưng trí tò mò của tôi đã thắng. tôi vội hỏi:
– Hồi nhỏ anh sống với bà à? Chắc có nhiều kỉ niệm lắm ?
– Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.Hồi quê hương tôi khổ lắm , chiến tranh mà ! Năm 1945 cả nước đang lâm vào cảnh đói khủng khiếp khiến hơn hai triệu người chết ,gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Bố tôi còn con ngựa để đánh là may mắn lắm . Cả xã hội đói mòn đói mỏi . Trong những năm đói khổ đó , tôi và bà gắn bó với nhau . Bà không bao giờ để tôi đói hay thiếu bữa ăn nào . Bà mót từng củ khoai , lượm từng củ sắn để có cái ăn cho tôi .  Bà như bà tiên,  xua tan đi cái  không khí ghê rợn đầy tử khí của năm đó . Tôi nhớ mãi cái ” mùi khói “ .Hơn hai mươi năm rồi , khói vẫn làm cay mắt tôi. Cái “ cay “  của những kỉ niêm đói khổ, càng  “cay “ tôi càng nhớ bà và thương bà hơn.
Tôi lặng đi , không dám cất lời  hỏi tiếp . Thời gian trôi trong thinh lặng . Một lúc sau , đè nén xúc động , Việt Bằng kể tiếp: Cả quãng đời tuổi thơ tôi sống cùng bà. Trong tám năm ấy , đất nước có chiến tranh , hai bà cháu phải đi tản cư còn bố mẹ tôi thì đi công tác . Chỉ có tôi và bà , bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu . Thời gian ấy , tuy đói khổ với tôi lại là niềm hạnh phúc vô bờ . Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những ngày lưu lạc ở Huế. Trong khói bếp , chập chờn mở ảo , bà như bà tiên hiện ra từ trong những câu chuyện bà kể. Đối với tôi , bà là cha , là mẹ. Trong những năm sống, cùng bà , bà chăm lo tôi từng miếng ăn , từng giấc ngủ và bà còn là người thầy đầu tiên của tôi . Tôi lớn lên trong sự chăm sóc , dạy bảo của bà.Bà dạy tôi cách sống , cách làm người và những bài học đó đi theo tôi suốt cuộc đời . Là hành trang tôi luôn mang theo bên người . Bây giờ nghĩ lại, tôi đi xa rồi bà ở với ai , ai cùng bà nhóm lửa , ai cùng bà chia sẻ những ngày ở Huế ?. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở gần bà, sợ phải xa bà. Đang kể bỗng Việt Bằng dừng lại , nhìn mông lung rồi đột ngột cất tiếng ngâm thơ :
“ Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa “ .
Tôi lặng người và cảm thông cho nỗi lòng của anh , cảm thông với  nỗi nhớ bà của đứa cháu nơi xứ người .Tim tôi thổn thức , lòng dâng trào cảm xúc . Hình như nơi quê nhà tôi cũng có ngươi bà đang mong chờ tôi về. Đang miên man trong suy nghĩ của mình, tôi nghe tiếng Việt Bằng kể tiếp :
– Chiến tranh khốc liệt vô cùng. Nó gây ra bao đau khổ . Bà cháu tôi cũng là một nạn nhân của chiến tranh . Gia đình tôi bị chia cắt , bố mẹ tôi công tác bận không về, nhà cửa bị đốt trụi … Nhưng cuộc sống càng khó khăn , cảnh ngộ càng ngặt nghèo thì bà càng thêm vững vàng . Nhớ năm đó túp lều tranh của bà cháu tôi bị đốt .Không còn chốn nương thân . Bà dẫn dắt tôi qua hết mọi khó khăn . Bà cấm tôi kể này ,kể nọ trong bức  thư viết cho bố . Bà không muốn bố tôi đang bận việc nước , lo lắng cho nhà . Lời dặn của bà giản dị nhưng chứa biết bao tình cảm . Ôi, bà ơi ! hồi ấy đầu óc non nớt của cháu đâu thấu hiểu tấm lòng hi sinh vì nước của bà . Tấm lòng của bà cao cả chan chứa yêu thương .
Kể đến đây đôi mắt Việt Bằng đã nhòa loẹt . Tôi cũng bồi hồi xúc động lẫn khâm phục ngươi phụ nữ anh hùng.
-Bà của anh thật tuyệt vời ! Bây giờ bà của anh còn không ? Làm gì?
Đè nén xúc động , Việt Bằng cười rất tươi , vội vã trả lời :
-Còn … Bà tôi rất còn khỏe và vẫn dậy sớm nhóm bếp nấu nước , nấu cơm . Nhắc đến bà , tôi không quên được hình ảnh của bà với bếp. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bà và bếp lửa , hai hình ảnh ấy thực sự đã ghi dấu ấn lên cuộc đời tôi. Bây giờ cuộc sống đã thay đổi qua nhiều , bếp lửa truyền thống đã không còn hữu dụng nữa . Nhưng tôi mãi không bao giờ  quên được hai hình ảnh đó. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho tôi và mọi người. Bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho tôi. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương. Giờ đây tôi đã trưởng thành. Tôi có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chấp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở  nơi quê nhà.
Lắng nghe Việt Bằng thộ lộ tâm sự , tôi bồi hồi xúc động về hình ảnh người bà thiêng liêng cao cả. Để đất nước được hòa bình , những người bà , người mẹ đã  âm thầm hi sinh . Trong tôi dâng tràn lên một niềm tin cao đẹp đất nước ngày càng phát triển khi còn những người mẹ , người bà như thế . Câu truyện của Việt Bằng gợi tôi nhớ về quê hương , gia đình và càng thấm thía hơn tình cảm gia đình , ông bà , cha mẹ . Quê hương là bến bờ hạnh phúc sưởi ấm tâm hồn những đứa con xa xứ như chúng tôi
Qúa nửa đêm , giờ đã sang giờ giao thừa ở Việt Nam ,bếp lửa đã tàn , chúng tôi chia  nhau về phòng để kịp gởi lời chúc xuân tốt đẹp về Việt Nam . Viết xong lời chúc , Tôi lên giường đi ngủ .
–  Reng ! Reng ! Reng !
Tiếng chuông báo thức vang lên . Giời tôi mới nhận ra mình đã có một giấc mơ thật đẹp . Nhưng sao tôi vẫn cảm nhận được cái lạnh của nước Nga.Cái lạnh nhưng lại ấm áp tình cảm gia đình. Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ  mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Tình yêu thương , lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước, con người. Tôi thầm hứa mình phải biết yêu quý và bảo vệ hạnh phúc mình đang có.

Bài làm 4 – đóng vai cháu kể lại chuyện Bếp Lửa của Bằng Việt

Tôi vẫn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Dường như trong kí ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những tháng năm vô lo vô nghĩ bên người bà luôn là quãng thời gian êm đềm và thân thương nhất. Vượt qua bao sự thăng trầm trong cuộc đời và sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mộc ấy về bà vẫn đọng lại trong miền nhớ của biết bao tâm hồn, nó đưa ta về với khoảng trời xưa cũ bình dị mà an nhiên tự tại thuở niên thiếu. Với riêng tôi, có lẽ kỉ niệm về bà bên bếp lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn đi về trong cõi nhớ của tôi trên những chặng đường mà tôi trải qua. Nỗi nhớ ấy lại càng cồn cào da diết hơn trong những năm tháng sống xa xứ, đón những đợt gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những phút giây tĩnh lặng, mỗi khi nhìn làn khói của những ngôi nhà phía xa kia, cả một trời nhớ thương trong tôi lại ùa về, về bà về bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…

Theo dòng hoài niệm, kí ức đưa tôi về với những đêm đen của cái đói mòn đói mỏi năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi sinh sống, nhà nào cũng rơi vào cảnh đói thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy, để giành giật lấy sự sống ngày một thoi thóp, bố tôi phải lên phố xe thuê rạc cả người, dẫu vậy cũng chỉ đủ để rau cháo cầm hơi mà sống qua ngày. Cái đói nghèo cùng cực của năm Ất Dậu ấy như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ bốn tuổi lúc đó. Chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi những hơi ấm, sự an lòng và xua đi cái mùi tử khí tràn ngập quanh ngõ xóm thôn nghèo. Thứ hương thơm dung dị như nhen lên từ tình yêu nồng hậu của bà đã sưởi ấm cho tôi trong suốt thuở thiếu thời để rồi sau này trên mỗi hành trình dài và rộng mà tôi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi cay cay sống mũi mỗi khi hồi tưởng lại. Những năm tháng sau đó khi kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng, lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Suốt tám năm trời đằng đẵng tôi sống trong sự đùm bọc chở che của bà, bên bóng dáng tảo tần của bà và bên bếp lửa hồng bà nhen lên mỗi sớm chiều. Những năm tháng thơ bé ấy, bên cạnh bà cháu tôi, bên cạnh bếp lửa vẫn còn một nhân chứng mà tôi chẳng thể nào quên đó là chim tu hú. Tiếng hót của nó nghe sao mà chơ vơ lạc lõng như khao khát được che chở ấp iu đến vậy. Tiếng tu hú khắc khoải như xé tan cả khoảng không gian mênh mông buồn vắng, thương con chim tu hú bất hạnh biết bao nhiêu tôi càng biết ơn và trân trọng những ngày tháng tuổi thơ hạnh phúc được bà chăm chút, bao bọc bấy nhiêu. Bên bếp lửa bập bùng, tôi được nghe bà trải lòng về cuộc đời bà những tháng năm còn ở Huế. Một cuộc đời đầy truân chuyên và cùng cực. Bà gửi những hi vọng, ước mong về một tươi lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng ở bếp lửa nơi góc bếp, bà chăm tôi từng bữa ăn giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời. Những bài học làm người cao đẹp ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc chắp cánh cho những giấc mơ cao đẹp trong cuộc đời. Thứ ánh lửa ấm áp nồng nàn ấy mang đến cho tầm hồn tôi một sự an ủi trong những ngày tháng sống thiếu tình cảm của cha mẹ, bà như điểm tựa tinh thần cho tôi vững bước. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. Đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của cuộc chiến tranh khắc nghiệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của quân địch, ngôi làng tôi lúc đó là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều hoàn toàn cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà đang nuốt ngược nỗi đau và nước mắt vào trong. Nơi chốn nương thân của hai bà cháu tôi không còn, nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi luyện trong những năm tháng bể dâu của cuộc đời không cho phép bà tôi gục ngã buông xuôi. Bà cứng rắn dắt tôi vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo. Tôi hiểu rằng những thiếu thốn, cơ cực mà tôi mới trải qua không thể nào đong đếm được với những gian khó, nhọc nhằn và nỗi nhớ thương con nơi chiến trường đỏ lửa đều phải nén lại vào trong của bà. Và rồi đâu rồi cũng vào đó, nhờ vào tình làng nghĩa xóm mà bà cháu tôi cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ năm nào. Bà đã nhóm lên trong tôi ý chí và nghị lực sống trong cuộc đời này. Thật kì diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa hung tàn kia đã được hồi sinh trong bếp lửa của bà. Cứ thế tuổi thơ tôi được bà che chở qua bao tháng năm. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ, trường tồn theo dọc thời gian của bếp lửa kia.

Tháng năm làm tôi lớn lên và trưởng thành, những hoài bão đưa bước chân tôi đến với những chân trời xa nhưng chẳng thể nào tôi quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi nơi đó có tình yêu thương và đức hi sinh lặng thầm của người bà mà tôi dành cả cuộc đời mình để biết ơn và trân trọng, cũng chính tại nơi đó bà nhen nhóm lên trong tôi những ước mơ về một cuộc đời mới. Nếu những câu chuyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn thơ bé, thì bà chính là người viết lên câu chuyện cổ tích giữa cuộc đời này cho riêng tôi. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình yêu nồng hậu của bà, là mùi nếp mùi sắn thơm hương, của quê hương, và luôn là nơi mà tôi thuộc về…

Bài làm 5 – Hóa thân, đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa

Trong mỗi chúng ta, có lẽ kỉ niệm tuổi ấu thơ bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất. đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân thương, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy!

Tuổi thơ về người bà thân thương gắn liền với bóng đen ghê rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.

Đối với bản thân tôi “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi bắt đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tần tảo của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.
Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi ám ảnh sâu sắc trong cuộc đời tôi.

Tám năm! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như giục giã nghe sao mà da diết quá!

Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chăm chút tôi.

Giặc đi, ai ai cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn giúp đỡ nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà âm thầm chịu đựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân nối tiếp gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên. “Ôi chao! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao đau khổ cuộc đời bà

Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về cuộc đời tần tảo của bà, cuộc đời luôn cặm cụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt cuộc đời bà, bà nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và đến mãi mai sau,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.

Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ. Là kỉ niệm nâng bước tôi trong cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có lẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, đất nước, là sự sống bền bỉ của con người

Không chỉ như vậy, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.

Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàn, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống!

Bài làm 6 – Hóa thân, đóng vai nhân vật người cháu trong bài Bếp lửa

Thực sự thì sao mà có thể quên được vào mùa đông ở Liên Xô lạnh cắt da cắt thịt, nhà nào cũng giữ cho lò sưởi nhà mình luôn nóng. Thế rồi hình ảnh những làn khói từ các ống trên mái nhà liên tục bây lên quyện vào mây trời trông mới thật thanh bình biết bao nhiêu. Khi đang giấu mình trong chiếc áo khoác dày sụ từ trường về nhà khi trời đã chập tối, tôi lúc đó ngước nhìn lên bầu trời và cảm nhận thấy hình ảnh khói như thật quen thuộc với tuổi thơ của tôi. Hình ảnh khói như còn gắn liền với ký ức tuổi thơ, gắn liền với hình ảnh của người bà thân thiết mà suốt cuộc đời này tôi sẽ không bao giờ có thể quên được.

Thấm thoắt cũng đã mấy năm tôi không về lại Việt Nam nơi tổ quốc thân thương mà nình sinh ra và lớn lên nhưng không ngày nào tôi nguôi suy nghĩ về quê nhà. Ngày nào tôi cũng giành thời gian vào việc tìm hiểu thông tin về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Thực sự không chỉ vì thói quen khi nhớ nhà mà đó còn là sự không yên lòng cho những người thân yêu của tôi tại Việt Nam. Tôi cũng tự hỏi rằng không biết bà tôi giờ ra sao… Tôi sinh ra trong hoàn cảnh đất nước trong cuộc chiến bảo vệ độc lập gian nan và máu lửa. Cũng chính vì điều này mà ngay cả bản thân tôi cũng đã nhanh chóng sớm chứng kiến đủ mọi khó khăn. Tôi nhớ khi tôi lên bốn tuổi, khi đã có kí ức và ý thức về mọi thứ, ý thức sâu sắc nhất đó là về mùi khói bếp của bà. Đó cũng chính là những năm đói kém, mất mùa, dân ta một cổ ba tròng bị giày xéo thật thê thảm dưới gót giày bọn cướp nước. Hình ảnh cha tôi cũng khiến tôi không thể nào nguôi ngoai, cha lúc ấy là phu xe, con ngựa gầy ngày ngày theo cha ra thị trấn rồi lại quay về. Lần nào nhìn cha tôi cũng nhận thấy được bộ dạng của ông như cứ thất thiểu gầy yếu vì không có gì ăn trong nhiều ngày. Khi mà cha không có khách đi xe thì nhà chắc túng thiếu lắm, ấy vậy mà trong kí ức của tôi thì bếp lửa của bà chưa lúc nào tắt cả, chính bản thân tôi cũng chưa phải đói rết ngày nào nhờ sự yêu thương của cả nhà đặc biệt là người bà tảo tần. Khi lớn lên tôi mới hiểu đó là biết bao công sức tần tảo hôm sớm, bà cũng là người hi sinh, chắt chiu của cha mẹ, nhất là của bà để giữ sự ấm nóng cho bếp lửa. Bà luôn giữ lấy sự sống cho gia đình cho dù khó khăn như nào cũng nhất quyết phải có đủ cơm no ấm áo cho đứa cháu trai. Chỉ cần nghĩ đến những ký ức đó thôi thì sống mũi tôi bất giác cay lên và một cảm xúc như khó tả cứ trực trào trong khóe mắt đã nhòe lệ.



Khi tôi lớn hơn vài tuổi cũng đã hiểu chuyện hơn, cũng chính đó là lúc cuộc kháng chiến của dân tộc đi vào gian nan nhất, khi đó thì cha mẹ vào chiến trường, để lại tôi cho bà nuôi dạy. Trong những năm tháng ấy tiếng chim tu hú luôn ám ảnh tâm thức tôi mà không thể nào có thể quên được. Tiếng chim tu hú nó xuất hiện mọi lúc mọi nơi làm cho con người ta não lòng, tôi chợt nhớ cha, nhớ mẹ biết mấy. Cũng vào khi ấy ở làng chưa có trường, bà là người dạy tôi đọc sách viết chữ, dạy tôi nhóm lửa, làm mọi thứ, bảo ban tôi từng li từng tí một,… Bà tôi cũng còn hay kể chuyện ngày xưa khi gia đình còn ở Huế nữa. Mặt dù chính tôi còn chưa biết Huế ra sao nhưng nó hiện lên trong lời kể của bà thật đẹp thật đáng ước mơ một lền được đến đó. Thế nhưng đột nhiên tôi lại thấy thương bà mỗi khi màn đêm buông xuống. Nhìn bóng lưng bà gầy gò in trên vách lều khi đèn dầu được đốt lên chiếu sáng. Tôi tự biết được nếu như không vì tôi, tấm lưng kia đã không gầy đến thế. Và tôi nhớ đến tu hú, thay vì kêu não lòng người ngoài cánh đồng xa vắng kia. Tiếng tu hú như cứ kêu giúp hai bà cháu sẽ bớt phần cô đơn hơn.

Thế rồi cuộc sống yên bình rồi cũng qua đi chứ không thể níu giữ được nữa. Cũng chính trong năm ấy thì quân giặc tràn đến làng, chúng có những hành động thật là dã man đó như đốt nhà, cướp của, bắt người, đánh đập… biết bao nhiêu tội ác để không biết đâu cho hết. Hình ảnh căn nhà nhỏ bé đơn xơ xưa kia đâu còn, ở hai bên làng xóm thương hai bà cháu côi cút, đồng thời cũng đã giúp đỡ dựng được túp lều tranh để che mưa, che nắng. Lúc đó tôi da diết muốn viết thư cho cha kể cha mẹ nghe về việc ấy nhưng bà bảo với tôi rằng: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, con có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ yên tâm mà đánh giặc cùng mọi người”. Và vậy là trong lá thư ấy chỉ có nỗi nhớ tôi dành cho cha mẹ và như lời bà tôi nói nhà vẫn được bình yên. Lúc đó bản thân tôi cũng cứ thắc mắc mãi chuyện vì sao bà không cho tôi kể chuyện giặc đốt nhà nhưng cho đến khi lớn lên thì tôi đã hiểu thêm được sự kiên cường của bà tôi. Bà tôi cũng đã chọn cách tự mình gánh vác việc nhà để lo việc đất nước, bà không muốn bố mẹ tôi phải lo lắng về chuyện nhà cửa. Tôi bỗng nhiên cảm nhận thấy bà là người có một niềm tin thật vững chắc vào cuộc kháng chiến của dân tộc ta, có một lòng lặng lẽ hi inh cao cả. Đến bây giờ tôi nghĩ rằng không chỉ bà tôi mà tất cả những người bà người mẹ của dân tộc đều kiên cường như thế thì mới có ngày hòa bình hôm nay.

Ngày hôm nay tôi đang được đón nhận nền học vấn ở một nơi xa yên ổn và an bình nhưng không ngày nào tôi thôi nhớ về quê hương, không nguôi nhớ về bà tôi. Cũng đã mấy chục năm nay, bà vẫn tần tảo sớm hôm một nắng hai sương như vậy và trong những lá thư gửi qua tôi biết bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp. Ngay ở chính nơi quê nhà chỉ có một mình nhưng bà có bà con lối xóm cùng chia ngọt sẻ bùi nên cũng ắp đầy tình thương mến. Và có lẽ rằng chính ở đó, bà nhóm lên bếp lửa từng ngày là để giữ lại hơi ấm lửa của tuổi thơ cho đứa cháu một ngày trở về sẽ ngồi lại bên hơi ấm ấy mà ôm bà. Hình ảnh ngọn lửa chập chờn ấy chính là ngọn lửa thiêng liêng và kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời tôi, là ngọn lửa đại diện cho sự sống và tình yêu không bao giờ tắt của tôi.

Ngay khi tôi ở nơi đất khách, tôi vẫn không sao quên được mùi khóm của bà, hơi ấm lửa của bà. Cho dù sau này có đi đâu xa, có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả thì hạnh phúc của tôi cũng chỉ đặt ở ngọn lửa do chính tay bà nhen nhóm lên mà thôi.

Tình cảm bà cháu thật sự thiêng liêng và làm tan chảy mọi trái tim, đề bài đóng vai người cháu kể lại câu chuyện bếp lửa của Bằng Việt là một đề tài hay để các bạn học sinh thỏa sức sáng tạo thể hiện con chữ và cảm xúc của mình về bài thơ, từ đó hiểu được thông điệp của tác giả gửi đến đọc giả. Chúc các bạn lớp 9 có kì thi tốt và hãy luôn yêu thương bà của mình nhé.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top