Trang chủ » Cảm nghĩ về bài thơ Muốn làm thằng cuội của Tản Đà lớp 8 hay nhất

Cảm nghĩ về bài thơ Muốn làm thằng cuội của Tản Đà lớp 8 hay nhất

Bài làm 1
 
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) là một cây bút chắc chắn trong nền văn học Việt Nam mới. Những tác phẩm của ông dường như luôn được nhìn nhận theo chiều hướng rất phóng khoáng từ cách suy nghĩ đến lối viết khác nhiều so với những tác giả cùng thời, mở đường cho thơ văn Việt Nam hiện đại. Bài thơ Muốn làm thằng cuội cũng là dấu ấn rất mới đưa đến độc giả, đầy chất Ngông thỏa sức ở cõi mơ mộng tuyệt vời nhưng cũng chất chứa những thông điệp khiến ông phải đau đáu cõi lòng luôn mong được giãi bày với tri kỉ.
Mở đầu bài thơ, tác giả gợi mở ra bối cảnh đêm trung thu yên bình đầy  háo hức cho bọn trẻ vui đùa mừng rỡ chờ trăng lên, rước đèn phá cỗ và dường như  Mẹ thiên nhiên ưu ái cho chúng ta là một mùa không khí đầy dễ chịu, khoan khoái. Nhưng với mỗi thi sĩ mùa này cũng là để trải lòng với cả niềm vui và nỗi buồn kéo dài trước cảnh vật mang đầy tâm sự. Tản Đà cũng hòa chung không khí ấy, nhưng dường như nhìn thấy được một nỗi buồn thấm đượm của thời đại khác hẳn với suy nghĩ của lũ trẻ. Nỗi buồn có lẽ chẳng còn ai thấu hiểu ông nên ông đành mượn Chị Hằng vốn được miêu tả đầy hấp dẫn câu chuyện của bà mẹ vẫn được lưu truyền mọi thế hệ, một con người xinh đẹp, hiền dịu ta chẳng thể nào quên được, chỉ xuất hiện  trong những ngày rằm trăng đẹp nhất.
 
Với lối giao tiếp cách xưng hô đầy thân mật “Chị- em, ơi- à” để tác giả tưởng tượng dường như là kéo lên gần hơn với chị Hằng thoát ly khỏi trần thế để phiêu lưu và không  muốn vướng bận đến chuyện đời, tâm sự như 2 kẻ bạn bè cùng tâm trạng tìm sự đồng cảm, sự lắng nghe. Câu thứ hai  tác giả thốt lên “Buồn lắm” nỗi buồn ấy được nhấn mạnh sự đau khổ của tác giả “chán nửa rồi” đến từ thời thế ông đang sống một thời đại của sự trì trệ, bảo thủ của kẻ tham quan lại hống hách, với những thú vui xa xỉ, không chút chính trực chu toàn lo cho dân cho nước, khiến số phận những người dân chịu hết cảnh lầm than, đầy tù túng, bức bách cả về mặt thể chất và tinh thần. Và một con người như tác giả không tự đề cao bản thân nhưng ta hiểu được rằng một con người có trí như ông khó có thể nào chấp nhận được sự thực này, nhưng vì số phận thấp hèn không tiếng nói nên đành cam lòng chịu đựng.
 
Chẳng thể dừng lại được dòng suy nghĩ, tác giả bạo dạn hơn và chắc tác giả hẳn đã biết câu truyện cổ tích “Sự tích chú cuội cung trăng” ông lại nảy ra những suy nghĩ vốn rất khác người. Muốn làm thằng cuội nên đã dò hỏi chị Hằng ở câu tiếp:
 
“Cung quế đã ai ngồi đó chửa”
 
Bài làm 2
 
Một sự Ngông cuồng đến lạ, chắc hẳn nhiều người tự hỏi có những câu muốn được giải đáp từ chính tác giả sao lại không nghĩ đến ai lại muốn thế mình vào chỗ Thằng Cuội mang nhiều định kiến “Nói dối như Cuội” dám coi thường khuôn phép, ngây ngô, và cũng muốn được rời thế tục mãi mãi ở trên cung trăng cao xa mãi mãi tạm biệt quê nhà trần thế,đến một nơi chỉ có sự bầu bạn của với trăng với gió với chị Hằng. Sự phóng túng trong lối suy nghĩ, cũng như nỗi niềm khôn xiết thời đại đã hóa một Tản Đà dám trái điều mà lẽ thường khó đoán, muốn dược vô tư thể hiện cảm xúc, chỉ đơn giản là được bầu bạn trong lúc cô đơn giữa thế gian. Tác giả với suy nghĩ đó
 
Dường như muốn thuyết phục với lời văn đầy khơi gợi mở ra một khug cảnh tuyểt vời,giúp chị Hằng cũng bớt lẻ loi buồn tủi nơi cung trăng như chú cuội ở kia 
 
Có bầu, có bạn, can chi tủi, 
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui”.
 
Suy nghĩ thật liều lĩnh, nói đúng hơn một chữ “Ngông”nữa lại được xuất hiện ở trang thơ cũng dễ hiểu, dễ cảm thông khi con người ở trạng thái bế tắc tinh thần muốn giải thoát mà lại tìm được người bầu bạn sẻ chia dù có ở thế giới nơi cao vời vợi nhưng tâm hồn đồng điệu sẽ luôn muốn tìm đến được với nhau, niềm vui ấy khó tả xiết, hòa quyện đầy thư thái lâng lâng cùng mây trời.
 
Ngôn từ của tác giả dùng trong bài thơ tuy làm theo thể thơ Đường Luật, Tản Đà vẫn lồng ghép được những gì là thân mật gần gũi nhất, dễ hiểu nhất trong cả bài khiến cho những câu thơ không hề khô khan mà đậm tính lãng mạn và đa tình cảm, khoáng đạt. 
 
Hai câu thơ cuối, ý định trong tưởng tượng phong phú của tác giả dường như lên đến đỉnh điểm trong sự tự nhiên, sự ngông đáng yêu. Đáng quý vì từ sâu thẳm là nhân cách của một con người biết vượt lên tìm cái đẹp giữa  đời tạp nham, xấu xa. Sức mạnh đó nằm trong nụ cười cuối bài của nhà thơ và chị Hằng trong những đêm trăng sáng vằng vặc đẹp mê hồn nơi người xứ thanh cao gửi đến thế gian với nhiều ý nghĩa cười mãn nguyện của thi sĩ đa tình bên Chị Hằng mà ai cũng ao ước một lần ngắm dung nhân tuyệt trần, cái cười đó cũng là sự vui mừng khi cuối cùng cũng đã thực hiện được ước mơ tìm được người bầu bạn cùng cảnh ngộ,giữa đời chật chội, bó buộc dù có là cách xa hàng ngàn dặm như một cầu nối thơ mãi được tiếp nối giữa đất và trời. 
 
Khi kết thúc bài thơ ta vẫn cảm thấy tâm đắc không chỉ là bài thơ mà cả là một hồn thơ sáng vằng vặc như ánh trăng đêm rẳm kia của Tản Đà.  Sự lãng mạn hiếm có,những trang thơ đầy tính ngông là hình thức ứng xử thật tuyệt vời trước xã hội nhức nhối đương thời, bay bổng lên trên để rồi cảm xúc cứ thế tuôn trào với những vần thơ đáng quý.
 
Bài làm 3
 
Bài thơ có sức hấp dẫn do lời thơ tự nhiên, giản dị, có nhiều hình ảnh bắt nguồn từ trong các tác phẩm dân gian hoặc các điển tích thông dụng, đo tình thơ buồn chán mà chân thành.
Hai câu đề đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đời:
 
Đêm thu buồn lắm chị Hăng ơi
 
Trần thế em nay chán nửa rồi,
 
Đã “buồn’’, đã “chán”, lại gặp cảnh “đêm thu”, tâm trạng ấy dường như nhân lên gắp bội. Nhà thơ buồn chán vì chí hướng của mình không thực hiện được hay vì cuộc đời nghèo khổ, túng quẫn. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên tiếp. Nhà thơ không chỉ chán một cảnh đời đang sống mà chán cả trần thế. Có lẽ vì thế mới nảy sinh cái ý “muốn làm thằng Cuội” muôn bỏ quách trần gian để lên ở trên cung quế với chị Hằng.
 
Tản Đà chán đời nhưng vẫn không quên đời. Lên với chị Hằng, ông vẫn tìm cách hướng về đời.
 
Rồi cứ mỗi năm rầm tháng túm,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
 
Đây là cái cười gì? Cười tình, cười sảng khoái, hả hê hay cười mỉa mai, khinh thị? Có lẽ phải hiểu đây là cái cách biểu lộ thái độ khinh bạc với đời. Vì sao ông lại chọn ngày rằm tháng tám chứ không phải là ngày khác để biểu thị sự khinh bạc đó? Chắc vì ông muốn nhân lên nhiều lần thái độ bất cần của mình với đời.
 
Tóm lại, tâm sự của Tản Đà là tâm sự kẻ buồn chán cuộc sông muôn tìm một nơi ẩn náu. Ông muôn tìm đến với thiên nhiên (ở đây là cung quế và chị Hằng), ẩn mình trong thiên nhiên để giễu cợt lại đời bằng sự kiêu bạc của mình.
 
Qua thơ Tản Đà ta còn thấy cái “ngông” thể hiện khá rõ:
 
Trước tiên, ngay đề bài đã lóe lên một cái gì không bình thường. Ai cũng biết thằng Cuội trong vãn học dân gian, trong ấn tượng của người Việt Nam gắn liền với cái thói nói dôi (cho nên mới có câu: “Nói dôi như Cuội”. Thế mà ở đây, Tản Đà lại Muốn làm thằng Cuội, cái ý muốn ấy thật khác thường, thật coi thường tất cả. Nó là một điều ngông.
 
Nhà thơ gọi Hằng Nga là chị xưng em ngọt xớt. Song trong bốn câu thơ sau này, ông lại có phần lả lơi với chị Hằng:
 
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
 
Câu “Cành đa xin chị nhắc lên chơi” vừa nói cách lên cung Quảng lạ đời của ông, vừa có ý vị cười cợt của Xuân Hương. Chất đùa cợt lúc ẩn lúc hiện trong những câu thơ này khiến bài thơ lấy lại thế cân bằng, không lao sâu vào nỗi buồn chán giãi bày trong hai câu thơ mở đầu của bài. Trong cách xưng hô, trò chuyện của ông với chị Hằng, có ẩn chứa chút hơi ngông.
 
Ở hai câu cuối, tư thế nhà thơ và chị Hằng cùng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” cũng là tư thế khác thường so với quan niệm về quan niệm nam nữ thời ông đang sông. Nó cũng chỉ là cử chỉ ngông nghênh của ông dưới con mắt các nhà nho đương thời.
Vì sao Tản Đà lại có cái ngông, lại thể hiện cái ngông đó trong thơ mình? Có lẽ đây là một cách phản ứng lại với cuộc sông. Nó gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Nó tạo cho thơ ông có một giọng điệu khác thường. Bài thơ hấp dẫn người đọc trước tiên do lời thơ giải dị, tự nhiên. Có câu như một tiếng than, có câu lại như lời hỏi. Câu nào cũng không thấy dấu vết đẽo gọt của bàn tay thợ nhưng câu nào cũng điêu luyện.
 
 
 
 
 
Được mệnh danh là dấu gạch nối giữa hai thời đại văn học, thơ Tản Đà phóng túng, ngông nghênh với nội dung nhiều lần khiến độc giả bất ngờ, ngỡ ngàng. Một trong những bài thơ rất nổi tiểng của ông đó là bài thơ: “Muốn làm thằng Cuội”.
Ngay từ những câu mở đầu bài thơ, Tản Đà đã làm cho độc giả phải thích thú:
Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Hai câu thơ hiện lên với tưởng tượng về một đêm mùa thu với trăng sáng soi xuống trần thế. Nhà thơ trong tư thế ngắm trăng sáng mà liên tưởng tới câu chuyện cổ tích trên cung trăng có chị Hằng mà thốt lên với trăng, với chị Hằng trong hai dấu chấm than nặng trĩu. Cách gọi “chị Hằng” that thân mật, tự nhiên, gần gũi”. Nhà thơ như đang tâm sự về cảnh “buồn” của mình đồng thời bộc lộ tâm trạng trước cuộc sống thực tại “chán nửa”. Phải chăng, sống trong một xã hội tù hãm, uất ức, khi mà đất nước mất chủ quyền, con người mất tự do, những kẻ hãnh tiến thì thi nhau ganh đua bỏ mặc vận mệnh giang sơn, ông buồn chán vì phận tài hoa mà lận đận, không đủ sức thay đổi hiện thực bi kịch.
Tản Đà bộc lộ ước muốn của mình:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Phong cách của Tản Đà có thể tóm gọn trong một chữ “ngông” trong một thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính, ông luôn khiến cho độc giả phải bất ngờ bởi những ý tưởng trong những vần thơ của mình. Ông đã bộc lộ ước muốn của mình qua một câu hỏi rất bất ngờ cùng lời “xin” hết sức tự nhiên, chân thành, xin chị Hằng dùng cành đa để nhấc ông lên cung trăng để ông giống chú Cuội. Và ông đưa ra lí do đó là:
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Tản Đà đã đề nghị kết bạn với chị Hằng, bộc lộ một mong muốn có bạn để bớt tủi, có lẽ dưới trần thế ông đang rất cô đơn, khó mà tìm được tri âm tri kỉ nên chỉ có thể lên chốn cung trăng, chốn mộng tưởng để mong vơi nỗi cô đơn ấy. Điều này còn bộc lộ mong muốn phiêu diêu cùng mây cùng gió trong không gian thơ mộng, rộng lớn, không bị bó buộc. Khi ấy:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
Vào rằm tháng tám, khi ấy trăng là sáng nhất, tròn nhất, có người cho rằng vào khi ấy, người ta thậm chí có thể nhìn thấy cây đa và chú Cuội ngồi dưới. Tản Đà muốn mình được lên cung trăng sống trong cảnh bồng lai, thoát li hiện thực, tránh xa tất cả hiện thực đen tối âm u lên chốn tiên cảnh vô tư thanh tao rồi để khi nhìn xuống trần gian thì sáng khoải cười lũ người quyền thế phàm phu trang giành, ganh đua nhau, cười sự vô vị, trống rỗng của một thế gian mà ông đã “chán nửa”. Hơn thế, đay còn là cái cười mãn nguyện khi đã thoát li khỏi trần thế, thoát khỏi hố đen mà ông bất hào sâu sắc bấy lâu. Chữ “cười” được tách ra bởi dấu phẩy chính là để nhấn mạnh ý nghĩa ấy.
 
Với thể thơ thất ngôn bát cú mà không hề khuôn khổ, bài thơ mang đến cho người đọc sự dễ dàng trong việc tiếp cận và hiểu. Tuy rằng ước muốn làm thằng Cuội có vẻ như hoang đường nhưng Tản Đà cũng giống đa phần các trí thức đương thời, chỉ muốn thoát li khỏi thực tại tù túng, héo hon bởi họ là nhưng người có tài, có chí nhưng chỉ đành bó tay bất lực trước thời cuộc và chỉ biết gửi nỗi chán chường ấy vào thi ca, vào những ước muốn thoát li.
 
Bài thơ là cái ngông đáng trân trọng của Tàn Đà trong một thế cuộc vần xoay đen tối của đất nước. Đọc bài thơ, người đọc có tâm thế thoải mái trong sự tiếp thu tâm tư của tác giả nói riêng và các trí thức đương thời nói chung.
 
BÀI LÀM 2 PHÂN TÍCH MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Muốn làm thằng Cuội là một bài thơ nổi tiếng của Tản Đà trích từ tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây vẫn có chút Ngông của tác giả và lối thơ gian dị, dễ đi vào lòng người.
 
Đi vào phần nhan đề của bài thơ:" muốn làm thằng Cuội", nhà thơ sử dụng một chất giọng suồng sã, rất tự nhiên như là đã thỏa mãn nói hết được lòng mình, cái thẳng thắn của nhà thơ cùng cái " ngông": thể hiện sự một ước muốn thực tế, không một chút che đậy. "Muốn làm cuội" tức là muốn thoát lên trời, muốn rời khỏi thế giới thực tại. Tưởng chừng mong muốn thật cao sa nhưng trong bài thơ nghe thật dễ dàng thành sự thật.
 
Bản chất nghệ sĩ vốn là đa tình và giàu trí tưởng tượng. Tản Đà có thêm cái ngông nghênh: muốn làm thằng Cuội, thằng chứ không phải một cách xưng hô nào khác, cách xưng hô ấy giản dị mà ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Bài thơ là mong muốn lên cung trăng của thi sĩ mộng mơ:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Chị Hằng vốn dĩ là tiên nữ ở cung trăng. Ngay từ đầu thi sĩ muốn làm thàng Cuội để có thể giãi bày lòng mình với tiên nữ xinh đẹp. Hai câu mở đầu tứ thơ như một lời than phát ra từ trần thế. Không dùng những hình ảnh, sự vật để diễn ta nỗi buồn, thi sĩ bộc bạch chính những cảm xúc chân thật. Hai chữ "buồn lắm" ngay đầu khổ thơ làm cho nỗi buồn miên man, dàn trải trong từ nỗi lòng đến từng câu chữ. Chúng ta thường gặp những nỗi buồn, cái buồn lan ra tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội". Nhưng có lẽ đó không phải là cái buồn vu vơ, không có căn cứ. Cái buồn ở đây chính là cái buồn đời, buồn chán cuộc sống thực tại, mọi thứ như quay cuồng đảo điên. Đó là trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến vào thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng thi sĩ chối bỏ thực tại, tìm về cõi tiên mà cái buồn đã trở thành nỗi buồn của thời đại. Không gian tù túng, u uất của một đất nước bị rơi vào tay giắc ngoại xâm bao chùm hết thảy, làm trĩu nặng lòng người. Sinh ra trăm ngàn vẻ buồn khác nhau được gửi gắm vào những vần thơ nhưng chúng đều xoay quanh thời đại, mang một nét chung là sự bế tắc và bất mãn trước cuộc đời.
 
Nỗi buồn và cái chán nản trần thế của Tản Đà có căn nguyên từ đó. Và thế là thi sĩ đi tìm cho mình một sự giải thoát bằng cách thoát li khỏi thực tại, sống trong một thế giới biệt lập, đó là thế giới thần tiên. Để rồi Tản Đà bật lên câu hỏi nghi vấn:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Bản chất thái độ "Ngông" của Tản đà là một cách ông dùng để đáp trả lại cuộc đời, sự thế hiện của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc của xã hội. Trong nội tâm mâu thuẫn của thi nhân, có lẽ ông phải là một nhà thơ si mê hương đời lắm để rồi khi đời không còn như trong những giấc mơ, nó trở nên tù túng thì sự bẩ mãn cũng theo đó mà dâng cao. Câu thơ thứ ba đặt ra một lời ướm hỏi kín đáo, sau đó là một lời đề nghị thẳng thắn mong muốn lên cung trăng của mình. Vả chăng, tác giả chẳng có một ai cùng sẽ chia và giải tỏa nỗi buồn newn phải tìm đến trăng làm bạn, chị Hằng làm tri kỉ:
Có bầu có bạn, cùng tri kỷ
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Dù ngông, nhưng ông vẫn có cái lí của riêng mình, chính nỗi cô đơn, buồn bã khiến ông bật lên những lời thơ tràn đầy những mong muốn được xa lánh cuộc đời, lẩn tránh những rối ren ở cõi trần. Khát vọng lên cung trăng thực ra bộc lộ nỗi lòng đang chơi vơi mong muốn sự cảm thông, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Đến hai câu cuối, thi nhân còn vẽ ra một viễn cảnh trong tương lai:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười
Chất lãng mạn cùng cái ngông được bộc lộ rõ ở hai câu thơ cuối này. "Tựa nhau" như một sự gần gũi độc đáo của tác giả, ông đang ngồi trên cung trăng, bật lên tiếng cười trước cuộc đời đen tối, đó cũng là nụ cười hả hê của một kẻ sĩ đã thành công lánh đời, ông nhìn đời với cái khinh những đau khổ, những tăm tối của hiện thực.
 
Bài thơ bao chùm một cảm hứng thoát tục quen thuộc trong thơ cổ nhưng sự khác biệt, bài thơ pha chút ngông nghênh của thi sĩ. Vần thơ giản dị mà giàu sức gợi cùng cách biểu đạt độc đáo đã làm cho bài thơ có sức hút và lôi cuốn người đọc.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top