Bài làm 1
Cảnh tàn tạ của Nho học một thời mà ông đồ là nhân chứng tiểu tuỵ cuối cùng của nó tạo nên niềm thương cảm sâu xa không chỉ đối với một lớp độc giả khi bài thơ xuất hiện. Cái khắc khoái, cái day dứt không nguôi ấy còn mãi về sau bởi vì nói đến Nho học là nói đến một nền văn hoá du nhập vào nước ta không dưới một ngàn năm. Nó gắn bó với biết mấy buồn vui, nó đắp bồi nên bao mối quan hệ, nó tạo ra lẽ sống con người,… ấy là một nén văn minh truyền giữ từ đời này qua đời khác. Trước những biến thiên của lịch sử, trước xu hướng Âu hoá, một nền kinh tế khác, một nền văn hoá khác đang tiến vào làm rạn nứt và dổ vỡ những gì trước đó tưởng như trường cửu, mãi mãi không thể đổi thay. Nén hương tưởng niệm mà bài thơ thắp lên hướng vể không chỉ một con người, mà còn một thế hệ, một nền văn hoá văn minh, một thời đại đã không còn trước quy luật tiến lên của lịch sử. Cái hay của bài thơ không chỉ ở ý nghĩa xã hội (độ rộng) vừa nêu, mà còn ở hình tượng (độ sâu) của nó. Bài thơ vừa tả cảnh vừa ngụ tình. Sự đan xen vốn là thuộc tính của nghệ thuật thơ ca ấy xuyên suốt bài thơ một cách vô cùng nhất quán. Cả hai ý nghĩa nội dung lại chứa đựng trong một hình thức thể loại, một ngôn ngữ, một kết cấu thật là độc đáo.
Để hiểu đúng bài thơ, không thể không đi vào kết cấu, một kết cấu không chỉ giản đơn là đối lập xưa và nay, quá khứ với hiện tại. Ấy là kết cấu nổi, kết cấu một tầng. Nếu như thế chỉ cần so sánh như có người đã so sánh: bài thơ mở đầu là "Mỗi năm hoa đào nở – Lại thấy ông đồ già", và kết thúc là "Năm nay đào lại nở – Không thấy ông đồ xưa". Và từ đó mà chỉ ra rằng: đó là kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng, chặt chẽ để làm nổi bật chủ đề. Nhưng thực ra, đằng sau cái kết cấu tổng thể có tính chất khái quát vừa nêu, còn có một cái gì ở bên trong nó. Như mối liên hệ giữa quá khứ với quá khứ, một quá khứ xa với một quá khứ gần giữa hai khổ đầu (1,2) với hai khổ tiếp theo (3, 4). Và ngay trong phạm trù thời gian không thuộc thời hiện tại đã diễn ra một đối lập rồi. Hình tượng ông dồ ngay trong quá khứ đã ở vào hai đối cực: được chào đón, tiếp nhận và bị lãng quên, bỏ rơi. Vậy khai thác kết cấu bài thơ thế nào cho đúng? Phải chăng nên dựa hẳn vào dòng chảy thời gian mà bóc vào ba lớp, mà mỗi lớp ấy đéu đánh dấu bằng khái niệm "năm" vì thế mồi năm, đào ngày Tết chỉ có một lần. Đó cũng là ba nấc : – Mỗi năm hoa đào nở… – Nhưng mỗi năm mỗi vắng… – Năm nay đào lại nở… Ba nấc thang không phải lên cao mà là hạ dần xuống thấp ấy gắn với ba cảnh. Cảnh ấy có tình, được diễn tả một cách vừa đặc trưng vừa dồn nén tạo được những ấn tượng riêng cho mỗi bức tranh. Thời kì vàng son rực rỡ của ông đồ được tái hiện thật tài hoa ở hai khổ thơ đầu. Ấy là sự song hành giữa ông đồ và ngày Tết : Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Một chữ lại nhịp nhàng, ấm áp. Ông đồ trở thành một đường nét không thể thiếu được của mùa xuân. Cứ hoa đào nở là người xuất hiện như ông già Nô-en trước đêm trừ tịch phương Tây. Hai màu đỏ, màu đỏ của hoa, màu đỏ trên giấy của người cho chữ đều nổi bật lên giữa một cái nền nhộn nhịp tưng bừng của phố xá, kẻ lại người qua đông đúc. Hai màu đỏ ấy là trung tâm tạo nên một không gian màu hồng cho các vùng kẻ chợ. Những câu thơ bằng ngôn ngữ kể, tả xinh xắn gọn gàng không êm đềm mà khêu gợi ấy phải chăng là rất thích hợp với một tâm trạng người viết thoáng chút xốn xắng. Thật tự hào cho một mĩ tục được báo tồn, những tinh hoa đang được ngưỡng mộ. Cũng vinh dự thay cho một tài năng thư pháp được tôn vinh. Hoa đào ở khổ một đã nhường chỗ cho hoa tay trong khổ hai chính là niềm vinh dự ấy : Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài "Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay". Khổ thơ mang chất kí sự, chỉ ghi chép những gì nhìn thấy như thiên kí sự Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp mà vẫn say đắm lòng người, ấy cũng bởi cái tình của người viết. Giữa nhà thơ và ông đồ có một mối tương giao, tri ki. Hai hình tượng ấy khó tách bạch phân chia, phải chăng họ là những người cùng hội, cùng thuyền, những người đồng điệu? Chính vì là đồng điệu mà nhà thơ có một linh cảm không vui khi cơn gió đã đổi chiều, đổi chiểu mà không hiểu vì sao mới thành ngơ ngác : Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu ? Một chữ nhưng đặt ở đầu câu nói lên một sự thật, cũng nói lên một tâm trạng. Sự thật ấy là mọi cái đã khác xưa, tâm trạng ấy là bất ngờ, sửng sốt. Đọc kĩ khổ thơ thứ ba, ta mới nhận ra một xu thế khó lòng đảo ngược để tất cả trở về vị trí ban đầu (khổ 1). Đông ("Bên phố đông người qua") đã thành vắng ("Nhưng mỗi năm mỗi vắng"). Đến đã thành đi. Những con người quen thuộc ngày nào nay đã trở nên xa lạ. Có lẽ vẫn là những con người ấy, nhưng trong lòng họ không còn bóng dáng ông đồ. Giữa họ và ông đã diễn ra cảnh đồng sàng dị mộng. Giữa biển người mênh mông đó, ông như một hòn đảo cô đơn. Một câu hỏi nghi vấn có từ nghi vấn, có dấu chấm hỏi ở cuối câu không có lời đáp, không có hồi âm như tan loãng vào không gian hun hút thì đấy là tâm trạng xót xa, ngao ngán đâu còn của người ngoài cuộc nữa. Phải nhập thân vào hình tượng ông đồ đến mức nào mới viết được hai câu thơ, trong đó, cái thực và cái ảo xen nhau: Giấy đỏ buồn không thắm ; Mực đọng trong nghiên sầu… Buồn, sầu vốn là tâm trạng con người, nhưng ở đây lại dùng cho giấy, cho nghiên. Câu thơ có vẻ không thực ấy hoá ra thành thực biết chừng nào! Ở đây cái buồn, cái sầu của ông đồ đã thấm vào giấy, vào nghiên. Đúng là "Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ?" (Nguyễn Du). Nhưng cảnh là nói chung còn giấy, mực vốn gắn với máu thịt với ông đồ, có nó ông mới khẳng định được tài hoa, mà bây giờ cũng buồn bã thế kia. Nó chính là cái tủi. Giấy đỏ đã không còn đỏ, mực đã đọng thành keo. Thật ngán ngẩm cho một thời cái đẹp đã lên ngôi nay không còn nữa. Bản thân ông, chữ thánh hiền của ông, nền văn hoá mà lối chữ tượng hình đó gìn giữ cho mai sau nào có ra gì ? Biết là như thế, nhưng vì sao "Ông đồ vẫn ngồi đấy"? Câu thơ không chịu lùi bước ấy vừa như một phương châm của khí tiết không chịu thất bại trước hoàn cảnh cũng vừa như những gắng gượng cuối cùng, dã đuối sức lắm thay ! Lặng lẽ, khiêm nhường, đơn côi, lạc bước. Có ông mà cũng như không có ông. Thực thì, ông đã lùi đến cái chỗ không thể lùi thêm để nhường chỗ cho kẻ qua người lại vô tình, cho lá vàng, mưa bụi: Ônq đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi trên giấy ; Ngoài giời mưa bụi bay. Sự phủ nhận đối với ông đồ cứ tới tấp, cứ lớp lớp tầng tầng như thế, nhưng lại làm ra vẻ vô tình. Thì ra sự lạnh nhạt, dửng dưng cũng có ý nghĩa như sự giết chết con người bằng cách riêng của nó. "Chết đuối người trên cạn mà chơi" (Cung oán ngâm khúc). Như thế là con sóng thời gian đã hai lần chứng kiến sự lên ngôi và thoái vị của Nho học ngàn năm. Nó tung hô và xô đẩy những phên dậu cuối cùng không hề thương tiếc. Vẫn là những câu thơ ngũ ngôn không đẽo gọt cầu kì mà thâm trầm ở bề sâu của nó. Vẫn là giọng thơ mang dáng dấp khách quan tả, kể mà không giấu nổi ngậm ngùi. Riêng các hệ thống chi tiết quan trọng làm nền cho bài thơ thì không ngừng biến hoá. Ở hệ thống sắc màu của giấy đỏ thì từ màu sắc thắm tươi (khổ 1) đã không còn thắm nữa (khổ 3), rồi không còn màu, chỉ còn giấy (khổ 4), thay cho giấy đỏ chỉ còn lá vàng (Lá vàng rơi trên giấy) tàn héo rụng rơi. Cũng là quy luật nghiệt ngã này trong hệ thống người thuê viết, ta nhận thấy: Sự vồ vập, ngưỡng mộ (khổ 1 và 2) đến chỗ xa lạ (khổ 3) và quên lãng (khổ 4). Hệ thống các chi tiết này tuy khác nhau, nhưng lộ trình của nó, lô gích của nó thì y hệt như nhau: hợp rồi tan, vui đến buồn, tốt tươi để tàn héo. Riêng hình tượng trung tâm, hình tượng ông đồ không nằm ngoài quy trình ấy, nhưng vì là hình tượng trung tâm, cần tập truns vào khổ cuối : Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? Để hiểu được sự vắng mặt vừa đột ngột vừa không đột ngột của ông đồ, cần đặt hình tượng này trong tổng thể cả bài, trong tiến trình từ có thành không (có ở bốn khổ đầu và không ở khổ cuối). Nó đột ngột ở chỗ: trong cảnh Tết đến xuân về, chưa bao giờ vắng mặt ông đồ, còn giờ đây khi bài thơ kết thúc, không thấy ông đồ đâu. Không những vắng mặt mà địa chỉ của ông cũng không còn. Hơn thế, ông nhập vào "Những người muôn năm cũ", nghĩa là xa lắc xa lơ. Còn nó không đột ngột ở chổ : kết thúc ấy là tất yếu của một quá trinh đi từ có đến không. Cái có đầu tiên cùa ông là một niềm vinh hạnh, ông hiện ra như một thứ hào quang. Ông đồ với tài hoa thư pháp là hội tụ bao nhiêu tinh hoa cao khiết ở chốn phường phố đông người. Ông là của họ, thuộc về họ. Có ông, có chữ viết của ông, gương mặt họ rạng rỡ hẳn lên với một niềm vui mà chỉ có hoa đào là không đủ. Những nét chữ thảo "phượng múa rồng bay" đối với mọi người, trong cả một năm là điểu khởi đầu tốt đẹp, là hi vọng ước mơ. Còn gì cao quý cho bằng. Còn sự cố mà như không chỉ thực sự xuất hiện ở đoạn sau (khổ 4). Từ hành động, ông đã trở nên bất động. Từ cánh chim tung hoành vùng vẫy, ông đã mất cả trời cao. Từ một thời hỏàng kim, ông chỉ còn là cái di tích tồi tàn của nó. Quy trình từ có đến không ở đây là một cái mốc, một sự chuyển hướng đáng buồn. Sự có mặt của ông chỉ là một thứ hình thức, một cái bóng vô hồn vì thực chất nó đã là không có, cho dù trong bài thơ nó chưa phải là dấu chấm cuối cùng, một sự sang trang mà chỉ là một nhịp cầu, một gạch nối. Sự chấm dứt vốn đã có trong thực chất ở câu "Ông đồ vẫn ngồi đấy" đến đày mới trọn vẹn, nghĩa là có một hình thức cho nội dung: cái bóng ấy cũng không còn nữa. Nó mất hút vào mênh mông, nó không còn một mảy may dấu vết. Với hai câu dầu của khổ cuối, bài thơ nhất quán trong một bút pháp kí sự, ghi chép khách quan những gì mà nhà thơ – với tư cách là một người qua đường nhìn thấy. Trong cả trường đoạn thơ trên, cho dù ta có bao nhiêu cảm xúc, tâm tình, nhưng tự nhà thơ vùi kín nó trong những chữ, những câu. Đến lúc này, sự ghìm nén nói trên không còn nữa, vì mất đi sư cân đôi, thăng bằng. Nó phải oà ra nức nở. Nức nở là ở trong lòng thôi, còn âm thanh, ngữ điệu của hai câu cuối cùng ấy chẳng qua cũng như những tiếng thở dài thật bâng khuâng man mác. Hình như có ở đây cả sự nuối tiếc, xót xa, có cả sự day dứt, băn khoăn ân hận. Bởi biết rằng trong xu thế Âu hoá về nhiều mặt, những gì cũ kĩ, cản trở sẽ phải mất đi – trong đó có cả những cái cần thiết, không nên mất đi, mà chính nhà thơ không có cách nào níu giữ được. Tâm trạng xót xa day dứt ấy chính là một sự trả giá, một trách nhiệm không còn có cơ hội bù đắp. Câu thơ như một lời tự vấn, tự trách lương tâm có khả năng đồng cảm đến bao nhiêu thế hệ từ đó về sau chính là vì thế. Trong cuộc đời làm thơ, Vũ Đình Liên viết không nhiều, và các bài thơ không nhiều ấy khơi nguồn từ "lòng thương người và tính hoài cổ" (Hoài Thanh). Ông đồ đã hội tụ được cả hai mạch cảm hứng ấy, nó đã là một tinh hoa.
Bài làm 2
Mỗi dịp tết đến xuân về, người Việt xưa thường có thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó, viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Người có hoa tay, viết chữ mà tưởng như vẽ bức tranh. Đầu thế kỉ XX, trên các phố phường Hà Nội còn lưu giữa lại hình ảnh những cụ đồ nho cặm cụi đậm tô từng nét chữ “tròn, vuông tươi tắn” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đón Tết. Hình ảnh ấy đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản dị mà sinh động:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua
Cấu trúc “mỗi…lại” cho ta thấy sự lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đa xtrơe thành sứ giả báo tin xuân. Bởi vậy nói “hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết.Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh thơ này, ông đò lại trở thành tâm điểm. điềm đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái quý giá nhất mà ông có. đoạn thơ hai mươi chữ giới thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những khổ thơ sau:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Từ phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đò ngồi viết chữ.Câu thơ ấm ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chât phiếm định “bao nhiêu” và tính từ “tấm tắc”biểu đạt sự thán phục, ngợi cn, trân trọng. Ngươì xưa quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền. Học chữ ấy không phải đê kiếm sống mà mục đích cao nhất là để làm người, để có thể phò vua, trợ nước, giúp đời. Đầu thế kỉ XX, tình hình đất nước Việt Nam có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực.Tình trạng “Âu học chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” rồi khoa thi cuối cùng của triều đình phong kiến đã làm tiêu tan bao giấc mộng vinh quy bái tổ của các đệ tử của Khổng sân Trình. Để tìm kế sinh nhai, họ chỉ còn một cách duy nhất là đi bán chữ như hoàn cảnh của ông đồ trong bài thơ. Dẫu việc đánh đổi chữ thánh hiền để lấy miếng cơm manh áo chỉ là việc cùng bất đắc dĩ, chẳng phải vui sướng, danh giá gì nhưng cái tấm tắc ngợi khen của người đời cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời.Họ súm sít thuê ông viết chữ, trầm trồ trước cái tài hoa của ông cũng có nghĩa là còn biết trân trọng tài năng và cái đẹp.Hai câu tiếp theo, nhà thơ miêu tả cận cảnh, đặc tả nét bút tài hoa của ông đồ:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng mua rống bay
Câu thơ gợi ta nhớ đến một hình ảnh tương tự mà Đoàn Văn Cừ ghi lại được trong phiên chợ tết:
Một thầy khoá ò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân
Người đọc tưởng như nhìn thấy trước mắt bàn tay có những ngón thon dài nhỏ nhắn của ông đồ uốn lượn cây bút.Theo đà đưa đẩy của bút lông từng nét chữ còn tươi màu mực dần dàn hiện ra mềm mại như “phượng múa rồng bay”.Dường như trongnét chữ ấy ông đồ gửi gắm tất cả cái anh hoa, khát vọng và lí tưởng của mình.Chính linh hồn và tâm huyết của người đã làm con chữ sống dậy.Câu thơ của vũ Đình Liên như cũng muốn bay lên với niềm hân hoan trong thời kì hoàng kim của ông đồ.
Nếu cứ tiếp tục nhủ thế thì nhà thơ cũng chẳng có gì để nói. Bất ngờ là đặc trưng cảu cuộc đời. Khổ thơ thứ ba bắt đầu bằng một từ “nhưng” dự báo biết bao thay đổi:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên:
Giáy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao? Quả là:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đau bao giờ
(Nguyễn Du-Truyện Kiều)
Nếu như trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm không gian và lòng người thêm náo nức.Người ta đón nhận ông bằng tất cả sự trân trọng, kính yêu. Thì giờ đây:
Ông đồvẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
“Vẫn ngồi đấy” nghĩa là ông vẫn đến theo tín hiệu của hoa đào, vẫn “bày mực tàu giấy đỏ” trên con phố dông người lại qua sắm tết. Ông chờ đợi cái súm sít, tấm tắc của người đời nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ đến đáng sợ. Nghệ thuật đảo ngũ cùng kết hợp phủ định “không ai” thể hiện rõ nét cái lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm đến đáng sợ cảu người đời. Họ cứ đi lại, vui vẻ nói cười mà không có chút ý thức nào về sự tồn tại của ông đồ. ông đã bị họ lẵng quên, bị đẩy ra bên lề cuộc sống. Tình cảnh của ông đồ có khác gì những ông cống, ông nghề trong thơ Tú Xương:
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Đã đau đớn chôn vùi giấc mộng vinh quy, bán dần chữ thánh hiền để kéo dài thêm kiếp sống vậy mà lại bị lãng quên ngay trong lúc đang còn tồn tại. Câu thơ có cái già đắng đót cho bi kịch được nhân tới hai lần của ông đồ. Người đọc bỗng nhói lòng bởi dáng ngồi như hoá đá của ông giữa một trời mưa bui bay bay và những chiếc lá vàng đậu trên trang giấy:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Ai đó đã nói: Khi con người lui bước thì thiên nhiên chế ngự. Bởi không còn được dùng đến, bởi sự chờ đợi trong yên lặng quá lâu nên lá vàng tha hồ thả mình trên giấy. Ở đây cũng là mưa xuân nhưng nó không “phơi phới bay” như trong thơ thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính sau này. Ông đồ hình như cứ bị chìm lấp, mờ nhạt dần trong màn mưa. Để rồi đến khổ cuối thì bóng hình ông hoàn toàn không còn nữa:
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đò xưa
Khổ thơ chơi vơi trong cảm giác thiéu vắng, mất mát. Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến nhưng không còn đượng vẹn nguyên như xưa nữa. Ngôn ngữ thơ có sự chuyển đổi tinh tế từ “ông đò già” đơn thuần chỉ tuổi tác thành “ông đồ xưa”, biến nhân vật vĩnh viễn thành ‘cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn” (lời Vũ Đình Liên). Văn minh, Âu hoá kông chấp nhận ông, không cho ông một con đường sống nên ông phải lỗi hẹn với hoa đào.
Bài thơ khép lại bằng tiếng “gọi hồn” thao thiết của tác giả:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đau bây giờ?
“Những người muôn năm cũ” ấy là ai?Là ông đồ, là những ngơừi thuê ông đồ viết chữ hay là một thời đã đi qua nay chỉ còn “vang bóng”(chữ dùng của Nguyễn Tuân)? Dãu là gọi ai thì câu thơ cũng kết đọng bao tiếc nuối, xót xa cho sự phôi pha, tàn tạ của những nét đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc.Nhà thơ gọi để tiêc nuối và gọi để thức tỉnh hãy giữ lấy những giá trị truyền thống ngàn đời mà cha ông đã bao công bồi đắp. Tiếng gọi hồn ấy có giống với tiếng gọi đò u hoài của ông Tú Thành Nam vang trên sông Lấp khi xưa không?
Sử dung thể thơ ngũ ngôn và ngôn ngữ gợi cảm, giàu sức tạo hình, Vũ Đình Liên đã khiến cho tác phẩm của mình có dáng dấp một câu chuyện, kể vè cuộc đời một ông đò từ lúc còn được người đời trân trọng, cảm phục tới khi bị lãng quên. Qua hình tượng ông đồ, tác giả đã bày tỏ thật xuất sắc “lòng thương người” và “tình hoài cổ” của mình.
Bài làm 3
Tiết trời gần vào độ cuối đông. Ở các làng hoa Nhật Tân, Quảng Bá nhiều cành đào đã lấm tấm nụ. Những người trồng hoa đang tìm cách hãm cho đào ấp nụ lâu để chờ dịp Tết. Giữa việc làm ấy của người trồng hoa đào bây giờ với chuyện “vẫn ngồi đấy” kiên nhẫn của ông đồ già “muôn năm cũ” có gì giống nhau chăng? Vì kế mưu sinh, con người ta quá thừa kiên nhẫn. Nhưng ai mà chế ngự được thời gian, chiến thắng được quy luật vần xoay của tạo hóa. Muộn chút thôi, rồi đào nở. Gượng sức tàn, rồi ông đồ cũng phải rút lui vào hậu trường của xã hội. Vũ trụ và lịch sử cứ thản nhiên thực hiện cái quy luật sinh thành và đào thải khôn cùng. Nhưng lòng người không thể không xót xa, ngậm ngùi và chẳng thể dửng dưng khi đọc những hoài cổ tha thiết của Vũ Đình Liên qua Ông đồ.
Vũ Đình Liên sinh năm 1913, là nhà thơ, nhà giáo từng giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Ông tham gia phong trào Thơ mới từ những ngày đầu, ông viết không nhiều nhưng Ông đồ là một trong những bài thơ nổi tiếng của Thơ mới. Viết bài Ông đồ, nhà thơ đã thể hiện niềm thương cảm chân thành đối với một lớp người tài – tình sinh bất phùng thời đang tàn tạ, đồng thời xót thương, tiếc nhớ những cảnh cũ người xưa…
Thi phẩm có năm khổ thơ, mỗi khổ bốn câu, mỗi câu năm chữ thật xinh xắn. Hai khổ đầu miêu tả lại khung cảnh mùa xuân trước đây, khi ông đồ còn được tôn vinh:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già”
Hoa đào và ông đồ đã thành hai hình ảnh sóng đôi trong không khí đông vui náo nức của ngày Tết qua cặp từ liên kết “mỗi năm-lại thấy”. Từ chỉ lượng không xác định “bao nhiêu” và từ láy “tấm tắc” vừa thể hiện sự tôn kính, trọng vọng ông đồ, vừa nói lên sự quan tâm, ưu ái chữ Nho của cộng đồng người Việt ngày xưa.
Tuy nhiên, ở khổ ba bắt đầu có sự biến đổi. Ông đồ dần bị xa lánh. Từ “mỗi” điểm nhịp cho bước tiến thời gian – bước suy thoái của Nho đạo. Việc thư pháp bị thờ ơ là biểu hiện rõ ràng cho điều này. Đạo Khổng đã đến hồi mạt vận, từ bỏ quyền ngự trị trong nền văn hóa mới: Tây phương. Trước tình cảnh không thể cứu vãn nổi ấy, Vũ Đình Liên chỉ còn có thể xót thương cho số phận ông đồ. Nếu thay chữ “rồi” hoặc “sau” thì giọng thơ sẽ chỉ đơn thuần là lời tự sự. Chữ “nhưng” cùng với câu hỏi tu từ đã tạo nên sắc thái biểu cảm buồn đau sâu sắc, mênh mang. Và đặc biệt là hai câu tuyệt bút:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
So với hình ảnh “mực tàu giấy đỏ” được phô bày ở khổ một, quả thật nét tương phản đã khắc họa sâu đậm và chân thực hơn rất nhiều nỗi sầu tủi. Thông qua giấy-mực-nghiên, những vật hết sức gắn bó với các nhà nho, tác giả đã vận dụng tài tình nghệ thuật nhân hóa để đặc tả cảm xúc ấy của thầy đồ già thất thế.
Từ chỗ “vắng người thuê viết” sang khổ bốn, tình cảnh của ông đồ đã trở thành “không còn ai biết đến”. Ông vẫn ngồi đó, già nua và xưa cũ. Nhưng trong tâm trí mọi người, ông đã không còn hiện hữu. Nỗi đau của con người ấy như tỏa ra cả không gian xung quanh:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
Chiếc lá lạc lõng và tiêu điều ấy, phải chăng chính là hình ảnh ông đồ cô đơn trong làn mưa lạnh lẽo thê lương? Vần thơ sao mà xót xa, đau đớn, buồn tủi vậy! Dáng điệu ấy của ông đồ giữa một không gian tiêu điều lạnh lẽo chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn.
Sinh ra, phát triển rồi suy thoái, đó là quy luật chung của tự nhiên. Thời gian tuần hoàn vĩnh cửu, còn ông đồ đã thực sự biến mất khỏi trần thế, trở thành những dĩ vãng xa xưa – hệ quả chung của một lớp người:
“Thôi có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co”
(Tú Xương)
Ông đã chết cùng với nền văn minh Khổng giáo suy tàn sau hơn hai nghìn năm tự trị. Ông là cái bi kịch về số phận cá nhân trong phút chuyển giao hai thời đại lịch sử văn hóa. Chỉ còn Vũ Đình Liên với niềm thảng thốt:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Khó có thể lí giải trọn vẹn những ngôn từ đa thanh đa nghĩa ấy. Ta chỉ cảm nhận được chiều sâu âm hưởng câu thơ cứ vang vọng mãi trong nỗi xót xa.
Với hai mươi câu thơ, tác giả đã xúc động biểu lộ bi kịch ông đồ tàn tạ, khái quát lên về một thời đại văn hóa cùng những triết lý nhân sinh, thế sự với tấm lòng chân thật, thấm đẫm chất nhân văn và niềm hoài cổ. Bài thơ vừa có phong vị Đường thi, vừa mang âm hưởng thơ hiện đại. Cổ điển ở đề tài, các mô típ lá vàng rơi, hoa đào, giấy đỏ, mực tàu, ở sự trầm lắng kín đáo của lời thơ. Hiện đại trong cách diễn đạt cảm xúc, xây dựng hình tượng ông đồ và cách kết cấu bài thơ theo dòng hoài niệm. Cảm xúc của tác giả không bộc lộ trực tiếp mà lan dần, thấm dần vào lòng người đọc qua rất nhiều khoảng trống gợi nhiều hơn là kể, tả dông dài.
Ông đồ là sự thăng hoa của tài năng và tâm hồn Vũ Đình Liên. Tài năng đã giúp cảm xúc thể hiện những rung động tinh tế và sâu xa nhất. Cảm xúc lại chắp cánh cho tài năng bay cao và tỏa sáng. Nhưng lịch sử cũng để lại cho ông niềm xót thương cuối cùng: nhà thơ Vũ Đình Liên và tuyệt tác Ông đồ sẽ bất tử trong nền thi ca dân tộc, và hình ảnh ông đồ đã làm xao xuyến trong trái tim bao bạn đọc hơn nửa thế kỉ nay.