BÀI LÀM 1:
Cuộc đời là đóa hoa, tình yêu là mật ngọt”, đại văn hào V.Hugo đã từng phải thốt lên như vậy. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình yêu Xuân Quỳnh – người đã đem đến cho làng thơ Việt Nam một tình yêu nồng nhiệt, táo bạo mà thiết tha, dịu dàng, hồn nhiên, giàu tự cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư. “Sóng” là một trong áng tình ca hay nhất của Xuân Quỳnh. Đứng trước biển lớn , Xuân Quỳnh đã bộc lộ rõ nỗi trăn trở, băn khoăn của mình về cội nguồn cua tình yêu”
Trước môn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gó bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Dòng thơ “Trước muôn trùng sóng bể” cho thấy sóng đã ra tới bể, đã hoàn thành cuộc hành trình kì công. Đối diện trước biển lớn là đối diện trước cõi vô tận, vô cùng của một môi trường sống mới khác hẳn dòng sông nhỏ hẹp khi xưa nên niềm khát khao cũng nảy sinh một cách tự nhiên và tất yếu. Lẽ thường ở khổ thơ này, nhà thơ phải viết “sóng nghĩ về’ nhưng nhà thơ lại viết “em nghĩ về” nhằm tạo nên sự đồng nhất giữa sóng và em. Hành trình của sóng cũng là hành trình của em. Trong điệp khúc Em nghĩ về anh, em – Em nghĩ về biển lớn” ẩn giấu niềm khát khao của một phụ nữ về tình yêu, về bản thân, về môi trường sống mới.
Từ nơi nào sóng lên
Đó là câu hỏi từng khiến bao lứa đôi băn khoăn và cũng chẳng ai có thể trả lời được một các rõ ràng, rành mạch được. Càng say mê bao nhiêu, càng thấy tình yêu huyền bí bất nhiêu. Người ta thường thiêng liêng hóa tình yêu của kiếp này biết đâu lại là sự hẹn hò của kiếp sau. Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng không ngoại lệ, cũng băn khoăn, thắc mắc, chăn chở đi tìm lời giải đáp. Nhưng cuối cùng Xuân Quỳnh cũng phải thú nhận bằng cái gật đầu dễ thương:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Điều thú vị là ẩn sau cái lắc đầu dễ thương rất con gái ấy, người đọc, khám phá ra những định nghĩa mơ hồ mà thú vị, tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Trước muôn trùng sóng bể, trước biển lớn, tại sao nữ sĩ lại nghĩ bề anh, em; tức là tình yêu của đôi mình? Có phải chăng tình yêu đôi ta cũng mênh mông, thăm thẳm như biển lớn, đại dương. Sóng, biển ,gió trời từ nơi nào mà có? “Em cũng không biết nữa” và tình yêu cũng vậy. Nào có ai biết điểm đầu, điểm cuối, nào ai biết nơi khởi phát và điểm kết thức của tình yêu. Tình yêu muôn đời vẫn khó hiểu như chính thế giới tự nhiên vậy. Tình yêu đến và đi có khi chỉ như một cơn gió thoảng như để lại rung động ngọt ngào trong trái tim để rồi thao thức nhớ, khe khẽ yêu.
“Tình yêu luôn có quy luật riêng mà lí trí thì không thể nào hiểu nổi”. Tình yêu đôi lứa mêng mang như đại dương, tự nhiên và bí ẩn. Đó là những chân lí xưa cũ mà ai cũng biết. Đóng góp của Xuân Quỳnh là tạo ra tiếng nói rât riêng đằm thắm nét duyên con gái về những điều xưa cũ ấy. Không nghiêng về tư duy logic như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, nữ sĩ Xuân Quỳnh nói bằng tiếng nói của cảm xuac trái tim. Không cắt nghĩa rõ ràng cụ thể, Xuân Quỳnh chỉ khơi gợi để người đọc tự chiêm nghiệm suy ngẫm. Chính điều đó tạo nên sức hấp dẫ của Xuân Quỳnh.
BÀI LÀM 2:
Thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: Vừa khát khao một tình yêu lí tưởng, vừa hướng tới hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một hồn thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
Hình tượng “sóng”
– Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng ‘Sóng’, bao trùm cả bài thơ là hình tượng: Sóng
+ Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
+ “Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
→ Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.
– Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).
→Nhịp sóng đó cũng chính là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.
Khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng lại hiện ra một ý nghĩa khác.
Khổ 1: Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nét đẹp nữ tính
“Dữ dội và dịu êm”… “Sóng tìm ra tận bể”.
– Xuân Quỳnh đã thấy sóng manh trong mình khí chất của người phụ nữ. Khổ thơ thứ nhất là tiếng nói đầu kiêu hãnh về giới mình của người phụ nữ này. Trong khí chất của sóng có sự hài hoà của các đối cực: vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất.
– Mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt: khi “sóng không hiểu nổi mình”, thì “sóng tìm ra tận bể”→Sóng từ bỏ chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.
Khổ 2: Biển chính là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với những sự bất diệt có thực của biển, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển ngàn đời vẫn cồn cào, xáo động, cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi vỗ sóng “trong ngực trẻ:
“Ôi con sóng… ngực trẻ” (khổ 2)
Khổ 3 + 4: Đến khổ ba của bài thơ, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình.
“Sóng bắt đầu… ta yêu nhau” (Khổ 3)
→ Mọi nỗ lực để cắt nghĩa về tình yêu của Xuân Quỳnh cuối cùng trở nên bất lực. Nhà thơ “thú nhận” thành thực, hồn nhiên mà không kém ý nhị, sâu sắc: “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”.
Khẳng định hình tượng sóng đã làm cho bài thơ thành công
– Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.
BÀI LÀM 3:
"Sóng" là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.
Bốn khổ thơ dưới đây trích trong phần đẩu bài thơ. Hình tượng "sóng" trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình "em" đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:
"Ôi con sóng ngày xưa
…
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".
Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn "muôn trùng sóng bể". Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: "Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế Từ "ôi" cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muồn đời của lứa đỏi, là "khát vọng" của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như "con sóng" tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì "dữ dội và dịu êm", lúc thì "ồn ào và lặng lẽ" làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, "bồi hồi":
"Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".
Hình tượng "sóng" trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân vãn. "Trước muôn trùng sóng bể" của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, thiếu nữ "bồi hồi" nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tổn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có "sóng lên". Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của "em" và "anh". Điệp ngữ: "Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: "Từ nơi nào sóng lên?" đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm,cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng "sóng" và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:
"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên".
Hỏi sóng rồi hỏi gió: "Gió bắt đầu từ đâu?". Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: "Khi nào ta yêu nhau". Đó là tâm trạng của "em", của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tìn mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với "em" tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải "thắm lại" của hai tâm hồn "anh" và "em", đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: " Làm sao cắt nghĩa được tình yêu"… Tuy không trả lời được câu hỏi: "Khỉ nào ta yêu nhau?" nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:
"Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?"
(Thế Lữ)
Sức gợi cảm của hình tượng "sóng" thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái "động", trong mọi không gian "dưới lòng sâu" hay "trên mặt nước" tầng tầng lớp lớp "muôn trùng sóng bể". Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: "Sóng nhớ bờ", trong mọi trạng thái: "Sóng không ngủ được". Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng "sóng" càng trở nên thơ mộng gợi cảm:
"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được".
Cấu trúc song hành, đối xứng: "dưới lòng sâu // trên mặt nước", "ngày // đêm", "nhớ bờ // không ngủ được" và điệp ngữ "con sóng" đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, và cả trong lòng người.
Xuân Quỳnh có lúc mượn "thuyền" và "biển" làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:
"Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ…".
(Thuyền và biển)
Từ hiện tượng "sóng nhớ bờ", nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ "em nhớ đến anh", một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:
"Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".
Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng "sóng nhớ bờ" rồi liên hệ, đối sánh với "em", với nỗi niềm "lòng em nhớ đến anh…" thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: "Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn". Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai". Có nỗi nhớ bồi hồi: "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nổi nhớ của "em", nhân vật trữ tình trong bài thơ "Sóng": "Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức" là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.
Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình "Biển" trong đó hình tượng "sóng" là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:
"Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi"…
Bài thơ "Biển" là một thử thách lán đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài ra đời, ẩn dụ "sóng" nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thể nói là "bất ngờ".
Người thiếu nữ trong bài thơ "Sóng" đã "tự hát" về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng "sóng" gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là "khát vọng".
.