Bài làm 1
Cùng với "Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm tác giả Ngô gia văn phái và "Thượng kinh kí sự" của Lê Hữu Trác, "Vũ Trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ là thiên kí tiêu biểu xuất sắc trong mảng văn xuôi giàu giá trị hiện thực của nền văn học trung đại Việt Nam, ở thế kỉ XVIII. Dưới con mắt tinh anh của người viết sử, Phạm Đình Hổ đã ghi chép thật chi tiết, khách quan, chân thực về đời sống xã hội thời kì bấy giờ trên rất nhiều phương diện: nghi lễ, phong tục, tập quán… Trong đó, tiêu biểu có đoạn trích "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh", tác giả đã ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Qua đó, phản ánh một xã hội thối nát, gián tiếp thể hiện thái độ lên án vua chúa quan lại Lê – Trịnh và bộc lộ niềm thương cảm với cuộc sống của nhân dân thời kì bấy giờ.
"Vũ trung tùy bút" là một tác phẩm đặc sắc, được Phạm Đình Hổ viết vào khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, hiểu theo nghĩa là ghi chép tùy hứng, tản mạn, không cần hệ thống, kết cấu gì. Truyện ghi chép những sự việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông. Tất cả những nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động, hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài quí về sử học, địa lí và xã hội học.
Trước hết, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa và quan lại Lê – Trịnh ở thế kỉ XVIII. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa được miêu tả rất sinh động, cụ thể hoàn toàn tương phản đối lập với cuộc sống đói khổ, túng quẫn của nhân dân: Chúa cho xây dựng nhiều đền đài, điện các liên miên ở khắp mọi nơi để phục vụ cho thú chơi đèn đuốc, ngao du vô độ, rất hao tiền, tốn của.
Để thỏa sở thích, chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung ngoài kinh thành: "mỗi tháng ba bốn lần". Chúa tổ chức các trò chơi, đám rước, hội chợ, âm nhạc lố bịch, kệch cỡm để làm trò giải trí: các quan nội thần thì mặc áo đàn bà bày bán hàng quanh phủ Tây Hồ; thuyền đi đến đâu thì các quan đại thần hỗ tụng đến đó, chốc chốc lại ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ.
Đình điểm của sự kệnh cỡm, lố lắng là chúng đã biến ngôi chùa Trấn Quốc cổ kính, linh thiêng trang nghiêm (tứ trấn Thăng Long Hà Nội) trở thành nơi hòa nhạc, ca vũ mua vui: "Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc". Như vậy, ngay ở phần đầu của văn bản, tác giả đã cho thấy được cuộc sống ăn chơi xa hoa, hưởng lạc của vua chúa quan lại Lê Trịnh với những việc làm tốn kém, vô bổ đến mức kệch cỡm, lố lăng. Gián tiếp phản ánh và tố cáo hiện thực bằng một giọng văn châm biếm, đả kích. Đồng thời cho thấy được bản chất của vua chúa quan lại Lê Trịnh: yếu hèn, nhu nhước, tham lam, ích kỉ.
Tiếp đến, nhà văn chỉ ra nỗi thống khổ của nhân dân trước sự tham lam nhũng nhiễu của vua chúa quan lại Lê – Trịnh. Tác giả đã dẫn ra những chi tiết sự việc vô cùng chân thực, kèm theo những bình phẩm, đánh giá để làm nổi bật lên sự yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ của vua chúa quan lại, khi chúng dựa vào quyền thế để tìm và cướp lấy những vật quí báu trong thiên hạ. Đối với chúa: trong mỗi lần dạo chơi li cung, bao nhiêu trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu thứ gì. Có khi lấy cả cây đa cổ thụ, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về, "phải một cơ bình mới khiêng nổi".
Trong phủ chúa bày vẽ, trang trí đủ loại "hình núi non bộ trông như bến bể đầu non". Đặc biệt là cảnh đêm nơi vườn chúa ngự: "Mỗi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường". Câu văn không chỉ đơn thuần là cảnh thực, tả khung cảnh tự nhiên trong phủ chúa mà ẩn sau đó chính là "triệu bất thường". Nhà văn đã dự báo về cái điềm chẳng lành của triều đại Lê – Trịnh tất sẽ bại vong, suy tàn.
Và như một lẽ tất yếu của lịch sử, mợi sự việc đi ngược lại với lợi ích của nhân dân thì tất yếu sẽ bị đào thải. Đó là vào năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, nội bộ lục đục, binh biến nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá hoang tàn. Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã dẫn quân ra Bắc chinh phạt, cơ nghiệp của triều đại Lê-Trịnh sụp đổ hoàn toàn.
Còn đối với quan lại trong phủ chúa, bọn chúng thường "mượn gió bẻ măng", dựa vào quyền thế của chúa mà cướp đoạt, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn tráo trở, vừa ăn cắp lại vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay thì biên ngay vào hai chữ "phụng thủ".
Đêm đến thì trèo tường vào nhà dân lấy phăng đi, rồi vu vạ buộc cho tội giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Thậm chí, có hòn đá hay cây cối gì to quá, bọn chúng còn phá nhà hủy tường của người dân để mà khiêng ra cho bằng được. Nhà giàu thì bị họ vu vạ cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ tiền bỏ của ra mà kêu van chí chết, có khi phải tự tay đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để khỏi bị tai bay vạ gió.
Đoạn văn cuối, tác giả kể lại sự việc xảy ra chính trong gia đình của mình: Mẹ của tác giả vì sợ hãi, muốn tránh sự phiền hà của quan lại mà đành phải tự chặt đi cây lê và hai cây lựu quí trong vườn nhà mình. Chi tiết này có tác dụng làm tăng tính xác thực, sinh động, thuyết phục. Đồng thời gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, bất bình trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc và bản chất yếu hèn, nhu nhược và tham lam, độc ác của vua chúa quan lại Lê Trịnh nửa cuối thế kỉ XVIII.
Tóm lại, "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" là một tác phẩm độc đáo, có giá trị đặc biệt quan trọng. Các sự việc được tác giả đưa ra cụ thể, chân thực (có thời gian, địa điểm rõ ràng), miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và có kèm theo những lời bình, cảm xúc, thái độ phê phán. Tất cả đều có giá trị phản ánh khách quan bản chất hiện thực xã hội đương thời. Vì thế, chuyện không chỉ có giá trị văn học mà còn là tư liệu lịch sử quí giá. Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc cũng thấy được công lao đóng góp của Phạm Đình Hổ đối với thể loại tùy bút, bước đầu chỉ ra những đặc điểm của thể loại này: ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.
Bài làm 2
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích từ Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực bức tranh trong phủ chúa Trịnh Sâm với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ; sự hống hách ngang ngược của bọn quan lại, đồng thời cho thấy cuộc sống khốn khổ của nhân dân.
Trước hết tác giả phác họa bức tranh ăn chơi xa xỉ trong phủ chúa Trịnh và các quan lại hầu cận. Để chứng minh thói ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ đã liệt kê trên nhiều phương diện. Trước hết, chúa cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện để thỏa mãn thú “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, việc xây dựng triền miên hết năm này qua năm khác, không chỉ hao tiền tốn của mà còn bòn rút hết sức lực của người dân, khiến cuộc sống của họ cùng cực, đói khổ.
Không chỉ vậy, chúa Trịnh còn thường rong chơi, trong một tháng dạo chơi trên hồ đến ba bốn lần. Những cuộc dạo chơi đó còn phải huy động rất nhiều người hầu, kẻ hạ “binh lính dân hầu vòng quanh bốn mặt hồ” sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh của chúa. Chúa Trịnh còn bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém tiền bạc như cho các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày hàng bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, thỉnh thoảng lại ghé vào mua bán. Thực là một cảnh lố lăng, kệch cỡm chưa từng có trong lịch sử nước nhà.
Đến sự việc thứ ba thì càng đáng trách hơn nữa, không chỉ bày ra những trò chơi kệch cỡm, phủ chúa còn ngang nhiên cướp đoạt trắng trợn những “loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh” trong dân gian mang về phủ chúa.
Để làm rõ hơn điều đó, tác giả lấy dẫn chứng hết sức chân thực về việc di chuyển một cây cổ thụ: “cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ bình mới khiêng nổi” ấy vậy mà phủ chúa nhất quyết phải đem cho được cây cổ thụ ấy về. Những việc làm, hành động đó càng cho thấy rõ hơn sự ngang ngược, lộng hành của chúa Trịnh Sâm.
Cuối đoạn văn, tác giả đã khẳng định: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Đây là những suy nghĩ, cảm nhận được nhà văn trực tiếp bộc lộ. Suốt cả đoạn văn phía trước ông chỉ kể lại, trần thuật lại bằng giọng đều đều bình bình, không nhấn nhá, không cảm xúc, nhưng đến đây ông cũng phải cất lên tiếng thở dài não nùng. Những kẻ thức giả, có hiểu biết sẽ nhận ra rằng đây là những dấu hiệu bất thường, báo hiệu sự suy yếu tất dẫn đến bại vong của một triều đại. Triều đại chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, chà đạp lên đời sống người dân ắt sẽ sụp đổ.
Người xưa vẫn thường nói rằng: “Thượng bất chính , hạ tắc loạn” tức để nói nếu bề trên làm việc không nghiêm túc, làm những điều sai trái thì tất yếu kẻ bề dưới cũng vì thế mà làm theo. Trong phủ chúa Trịnh, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Chúa Trịnh tham lam, chỉ lo hưởng lạc nên tất yếu sinh ra những kẻ hầu cận, quan cấp dưới ỷ thế mà ức hiếp dân lành, chúng dùng nhiều thủ đoạn để nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân.
Bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của người dân trắng trợn. Chúng “dò xem” nhà nào có vật quý thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Ở đoạn văn này tác giả sử dụng hàng loạt động từ, kết hợp với miêu tả cho thấy sự ngang ngược, bất nhân của chúng: “trèo qua tường thành lẻn ra” “lấy phăng đi” “buộc tội”,… đó là hành động của kẻ cướp, chúng vừa ăn cắp, vừa la làng. Những người bị vu vạ phải chạy vạy tiền của hoặc tự tay phá đi “núi non bộ” “cây cảnh” để không rước tai vạ vào thân.
Người dân phải chịu biết bao bất công, phi lí. Để làm cho đoạn văn tăng tính xác thực, Phạm Đình Hổ kể một chuyện xảy ra với chính gia đình mình. Gia đình nhà ông có cây lê cao lớn, đẹp đẽ, lúc hoa nở trắng xóa, thơm lừng; ngoài ra còn có trồng hai cây lựu trắng và lựa đỏ lúc ra quả rất đẹp nhưng bà cung nhân cũng phải sai chặt đi. Đoạn văn cuối tác phẩm đã góp phần tố cáo, tăng ý nghĩa phê phán với bọn quan lại lúc bấy giờ.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung đặc sắc mà còn gây hứng thú cho bạn đọc ở ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép một cách chân thực những gì mình đã chứng kiến. Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện. Kết hợp hài hòa giữa kể và tả vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác, bất nhân của chúa Trịnh và bè lũ tay sai.
Với thể tùy bút linh hoạt, phóng khoáng Phạm Đình Hổ đã ghi lại một cách chân thực, sinh động khung cảnh sinh hoạt sa đọa, lối sống xa hoa, vô độ trong phủ chúa và sự lộng hành, nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền. Đằng sau bức tranh đó còn cho thấy đời sống khổ cực, bị đè nén, áp bức của nhân dân.
Bài làm 3
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đời nhớ tới tác phẩm ‘Vũ trung tùy bút’ của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoà, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối then Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
‘Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong ‘Vũ trung tùy bút’ của Phạm Đình Hổ.
Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào. Cảnh ăn chen xa hoà của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ xvIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả ‘Vũ trung tùy hút’ chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
‘Chuyện cũ…’ đã xảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài ‘vô sự', là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thi Huệ được Chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoà: ‘thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tủ Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên hờ Tây Hồ mỏi tháng ba bốn lấn’. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có ‘binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ’. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang ‘đẩu hit khán, mặc áo dàn hà, bày hách hóa chung quanh hồ để hán’. Thuyên ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công Cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng ‘liên tục’ nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hồi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những ‘chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ nên cách kể, cách tả của ông rất sống.
Để được sống trong xa hoà, hưởng lạc cuộc đời vàng son đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì ‘sức thu lấy’ trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoà cây cảnh ờ chốn dân gian ‘không thiếu một thứ gì’. Có những cây cảnh ‘cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mục trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng’ phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên Bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa ‘điểm xuyết’ bao núi non bộ trông lạ mắt như ‘bốn bể đầu non’. Vượn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ‘ồn ào như trận mưa sa, gió táp, vỡ tổ tan đàn’. Nếu như trong 'Thượng kinh kí sự’ Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
‘Hoà cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phù đào nguyên thuở nào’.
thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: ‘kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường’. Cuộc sống cực kì xa hoà ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ xảy ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh bùng nổ, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! ‘Cái triệu bất thường’ mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
'Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mổ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn dổi được mình Lẩu ca viện hát, tan tành còn đâu ?’
(‘Văn chiêu hồn’ – Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: ‘Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan’. Chúng dùng thủ đoạn ‘nhờ gió be’ mãng, ra ngoài dọa dẫm’. Chi bằng hai chữ ‘phụng thủ’ biên ngay vào chậu hoà cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu ‘đém đến’ cho tay chân sai lính lẻn vào ‘lấy phăng di, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền’. Chúng ngang ngược ‘phá nhà hủy tường’ của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được ! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là ‘giấu vật cung phụng’ để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải ‘bỏ cùa ra kêu van chí chết’, có gia đình ‘phải dập bỏ núi non bộ, hoặc phá bò cây cành để tránh khỏi tai vạ’.
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê ‘cao vài mươi trượng, lúc nỏ hoà, trắng xóa thơm lừng’, hai cây lựu trắng, lựu đỏ ‘lúc ra quả trông rất đẹp’. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa.
Trang tùy bút ‘Chuyện cũ trong phù Chúa Trịnh’ của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoà ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa.
Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.
Bài làm 4
Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào nhoáng.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn hoá nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô sự – bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang của mũ mão cân đai rỡ ràng đối lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.
Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải Thượng Lãn Ông mô tả: “ nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can làm toàn bằng đá màu…”. Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần… Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng đáng với tiếng tăm Thịnh Vương – quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình: bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của mình, “bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn)! Quả thật, những gì Phạm Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương triều Lê – Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào: bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu chuyện sinh động: “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá thơm lừng ; trước nhà trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng vì cớ ấy” . Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy đủ, không cần nói thêm, viết thêm.
Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê – chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc.
Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào!