Trang chủ » Phân tích truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng lớp 9 hay nhất

Phân tích truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng lớp 9 hay nhất

Bài làm 1
 
Câu chuyện được kể "Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy…". Người kể chuyện là "đồng chí già"- một chiến sĩ lão thành từng trải qua biết bao nỗi buồn, niềm vui trong hai cuộc kháng chiến. Ông vừa là người chứng kiến, vừa là nhân vật của câu chuyện. "Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa thấy một giấc mơ…". Ông già cất tiếng. Giọng trầm đục, đầu hơi cúi xuống, mặt ngước nhìn mênh mông. Ngay từ mấy dòng đầu ấy của tác phẩm, Nguyễn Quang Sáng đã tạo được không khí cho câu chuyện. Ông không trực tiếp kể mà dùng nhân vật người già với cái giọng trầm ấm dể dẫn dắt bạn đọc. Do đó, truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cố tích, một huyền thoại, với biết bao nhân vật, bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kì diệu. Đây là sự sáng tạo của nhà văn hay chính là cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam anh hùng đầy những điều diệu kì, sáng tạo nên ? Xung quanh "chiếc lược ngà" ấy, chúng ta gặp những con người nhân hậu, thông minh, dũng cảm và cũng… sáng tạo biết bao!
 
Tác phẩm khá dài, có nhiều tình huống, sự việc éo le, hấp dẫn diễn ra trong nhiều quãng thời gian, hiện tại, quá khứ đan xen, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Ở đây, chúng ta chỉ đọc hiểu và suy ngẫm về đoạn trích trong sách Ngữ văn 9. Theo lời kể chuyện – nhân vật xưng tôi – chúng ta có thể tóm tắt những tình tiết như sau: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thâm con. Bé Thu – con gái ông – không nhận cha, trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm cho ông Sáu đau lòng, nhưng ông vẫn yêu thương con bằng tất cả tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, ông Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau. Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra, mấy ngày trước, do nhìn thấy trên mặt ông Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy ông không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện. Em cất tiếng gọi "Ba… ba !.." và hẹn "Ba mua cho con một cây lược nghe". Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quý nhớ thương con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu ông đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược nhờ người bạn, gửi vé tận tay cho con. Xung quanh câu chuyện vể chiếc lược ngà ấy, hai hình tượng nhân vật nổi bật lên. Nhân vật thứ nhất : cô bé Thu – một em gái tám tuổi – có một tình yêu cha đằm thắm và kì lạ. Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi, hai cha con mới được gặp mặt nhau. Cô bé tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn, ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Vậy mà, trong suốt ba ngày gần gũi, cô bé đã không nhận ra cha của mình. Cô đã nói năng cộc lốc, đã cư xử vùng vằng, ương ngạnh. Tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa, thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha "đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao". Đằng sau dôi mắt mênh mông, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Mấy tiếng gọi "Ba… ba !" cùng cử chỉ ôm chặt lấy cổ ba, hôn khắp mọi nơi, "hôn cả vết thẹo dài trên má của ba", biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với cha. Và khi nghe ông Sáu nói "Ba đi rồi ba về với con", cô bé hét lên "không", rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run run ! Chắc cô bé khóc ? Phải chăng lúc ấy Thu thực sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của minh, thực sự thấy xót thương người cha đau khổ ? Trong trí nhớ ngây thơ của cô, cha cô đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ. Vậy mà, cô không hiểu, cô lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Được bà ngoại giải thích, cô mới hiểu ra mọi lẽ. Khi bé Thu hiểu thì đã… muộn rồi. Cha sắp đi xa, xa mẹ, xa con, và tiếp tục cuộc đời gian khổ. Vì vậy, Thu siết chặt cổ cha, níu chặt lấy người cha, như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, đủ cho chúng ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong tréo, chân thành xiết bao. Vì thế, khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta đều có thể cảm thông, và lượng thứ cho Thu. Trong lâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây, cô lại vỡ thêm một vẽ dẹp nữa là : cha cô thật anh hùng. Cái giây phút "vỡ" ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc: "Ba…a…a…ba ! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người… tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó,… nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi (người kể chuyện) thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên". Dường như từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu thay đổi. Cô bé không chỉ yêu cha, mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên, gan dạ, dũng cảm ? Có thể nói, ở tuổi thiếu nhi, Thu là một em gái có tình cảm thật mạnh mẽ, sâu sắc, hồn nhiên, ngùy thơ,… Tất cả nét cá tính ấy đều tập trung biểu hiện tình cảm con đối với cha thật đằm thắm, bất diệt. Nhân vật thứ hai : ông Sáu – một người cha hi sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con bất diệt. Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh cả vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nổi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi "ba". Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi quá. Để rồi cụối cùng ông vĩnh viễn phải xa con. Ông đã ngã xuống trong thầm lặng, không một lời trăng trối, không nấm mồ, không bia mộ : "Các bạn ạ ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa". Lời ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhấn gửi thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại tới chúng ta ? Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy không chết. Vì ông là một người cha hết mực yêu thương con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, ông đã miệt mài, say sưa, cưa giũa, thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân, làm chiếc lược bằng ngà voi tặng con gái. "Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng" của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày mỗi đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, toả sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Do đó, trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cảm cha con, ruột thịt. Điều đó đúng như ông Ba nói "chỉ có tình cha con là không thể chết được". Chiếc lược ngà đã tìm được địa chỉ trao lại cho người con gái để "tình cha con không… chết !". Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong sự sống của người đồng chí già, của bé Thu – nay đã là cô giao liên mười tám tuổi… Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ ngợi ca tình cha con đậm đà, sâu nặng, bất diệt của hai cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc thấm thìa những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người, bao nhiêu gia đình trên đất nước Việt Nam. Gấp sách lại, chia tay ông Ba, câu chuyện về Chiếc lược ngà với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng la, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lí, tình cảm nhân vật và một giọng kể nhẹ nhàng, thấm thìa, truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng ? Phải là người từng trải đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Qua cuộc đời mỗi nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng : trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng dội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt! 
 
Bài làm 2
 
Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng , tình cảm cỉa con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. CÒn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sỹ cách mạng xa nhà đi thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Non nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con , ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc , thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu.
 
Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu “ chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người”, bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sư thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình.
 
Từ đằng xa thấy “ một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi” ông Sáu đoán biết là con , không chờ xuồng cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. “ Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con… giọng lặp bặp run run Ba đây con, ba đây con!” Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình “ tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng”. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu “ Má! Má”. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với “ vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ” đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình
 
Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế . Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng “ vô ăn cơm” hoặc “ cơm chín rồi”. Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mờ đường cho “ Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy”, Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bình và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu “ hất tung cái trứng cá to vàng” mà ông Sáu gắp cho nó.
 
Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích “ kêu rổn rảng” để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện cửa sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống , hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ. Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng “ ba”. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu.- người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bày, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này.
 
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì sự nghi ngờ của em được giải tỏa” “ Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn” . Sự miêu tả nội tâm gian tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em- yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.
 
Hôm sau trỏ về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn ràu “ Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng , nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa”. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái “ xôn xao” của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào “ Thôi ba đi nghe con” thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng “ Ba…….a…a” Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu nay , tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó. Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng “ ba” để gọi người xa lạ. Thế nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi. Cũng như bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu “ ôm chặt lấy cổ ba nó… dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp…hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát triển tính cách- tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động , sát với tâm lý lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.
 
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiên.
 
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng con. Tìm được một khúc ngà voi, “ anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe… mặt hớn hở như đứa trẻ được quà”. “ Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó. Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng , tẩn mẩn khắc từng nét “ Yêu nhớ tặng Thu con gái của ba”. Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ “ Yêu nhớ”, bao nồng nàn , thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ “ Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.” Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược. Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. TRút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu củatình cha con bất tử không bao giờ chết được.
 
Bản thân là người Nam bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người đọc.
 
Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng- người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực
 
Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh , niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu “ Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự , thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình”.
 
Bài làm 3
 
Vì tính cách mạnh mẽ, nên Thu ương ngạnh không chịu nhận ông Sáu là cha. Lần đầu tiên, khi nhìn thấy cha, bé Thu sợ hãi đến hét toáng lên và bỏ chạy. Đó là một điều đương nhiên khi trẻ con thấy người lạ khi vồ vập mình, hơn nữa, người lạ đó lại có vết sẹo rất đáng sợ. Nhưng mấy ngày sau, mặc mọi cố gắng gần gũi con của ông Sáu mà nó vẫn không chịu nhận cha thì chứng tỏ nó rất ương ngạnh. Nó không chịu gọi ông Sáu là “ba” mà chỉ gọi trống không khi mời ông vào ăn cơm hay khi nó muốn nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi giùm cũng vậy. Bị dồn vào thế bí, nó vẫn không chịu gọi một tiếng “ba” mà thay vào đó cố nghĩ cách để chắt nước cơm và không cần giúp đỡ thì thật là đáo để. Không những vậy nó còn phản ứng quyết liệt: hất miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu ân cần gắp cho nó. Khác những đứa trẻ khác, bị đánh nó không khóc, mà chỉ lẳng lặng gắp miếng trứng vào bát cơm rồi bỏ đi sang bà ngoại.
 
Thực ra, sự phản ứng mạnh mẽ của bé Thu càng chứng tỏ nó rất yêu cha, nó không chịu nhận ông Sáu là cha chính là vì nó yêu cha nó sâu sắc. Sống trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt, gia đình bị chia cắt, Thu chỉ biết cha qua tấm hình chụp chung với má. Khao khát mong gặp cha, nó hằng ngày ngắm cha trong ảnh. Nó quá nhỏ để hiểu được sự tàn nhẫn của chiến tranh, mà người lớn trong nhà lại không ai giải thích cho nó. Từ trước đến giờ nó chỉ yêu người cha trong ảnh, vì thế nó không chấp nhận “người đàn ông lạ mặt dám nhận là ba nó”, càng yêu ba của mình, nó càng xa lánh ông Sáu là nó có suy nghĩ riêng à không phải là không hợp lí.
 
Không chấp nhận ông Sáu là ba, Thu có thái độ và hành động phản ứng rất quyết liệt; đến khi được bà giải thích về vết sẹo trên mặt ông Sáu, nó hiểu ra ông chính là cha mình thì tình cảm nó bộc lộ cũng rất mãnh liệt. Nghe bà nói nó ân hận không ngủ được, còn “thở dài như người lớn”. Hôm sau về nhà thấy mọi người vây quanh ba nó “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Yêu ba nên nó vô cùng đau lòng khi làm ba nó buồn suốt mấy ngày phép ngắn ngủi, bây giờ ba phải đi rồi, nó chẳng thể chuộc lỗi. Nó chỉ có thể nhìn ba nó từ xa mà không dám lại gần vì nó biết, nó đã làm ba nó đau đớn rất nhiều.Phải đến lúc ba nói với nó: “Thôi! Ba đi nghe con?” thì nó mới như bừng tỉnh, kêu thét lên:
 
Ba…a…a…ba!
 
Tiếng gọi như xé lòng của nó dường như đã được ém giữ rất lâu rồi, giờ nó trào dâng ào ạt, nó chạy đến, nhanh như một con sóc, nó nhảy lên, ôm chặt lấy ba nó, nó xúc động mạnh đến mức làn tóc tơ sau gáy dựng đứng lên. Nó hôn cùng khắp và áp vào khuôn mặt cha, hôn rất lâu lên vết sẹo trên má. Khi nghe ba dỗ “Ba đi rồi ba về với con”, nó hét lên: “Không!”. Nó sợ ôm bằng tay chưa chắc, nên “dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó”.Tình yêu cha của con bé tám tuổi mạnh mẽ đến lay động cả gian nhà, làm bà con xung quanh không ai cầm được nước mắt.
 
Tình cha con trong chiến tranh thật éo le, éo le đến đau lòng. Mong mãi con mới gọi một tiếng “ba” thì ông Sáu lại phải đi, trong lòng ông chắc nặng trĩu nỗi thương con, bởi ông yêu con vô cùng sâu đậm.
 
Ông Sáu – một cán bộ thoát li đi kháng chiến, suốt tám năm xa con na được về thăm con ông xiết bao mong được sống mấy ngày thật hạnh phúc bên con. Nào ngờ, khi được gặp con, ông Sáu hồi hộp, sung sướng bao nhiêu, thì lại đau khổ bấy nhiêu, khi con bé cứ xa lánh ông. Ba ngày tiếp, ông càng săn đón, con bé lại càng lảng tránh, đau xót trong lòng không khóc được ông chỉ đành cười, những nụ cười ra nước mắt. Nỗi đau bị dồn nén, đẩy lên quá mức khi ông gắp cái trứng cá cho con và bị nó đẩy ra làm cơm bắn tung tóe. Phản ứng bất ngờ của con bé khiến ông không kịp suy nghĩ mà đánh con. Ông đánh nó không phải vì ông giận nó mà vì ông quá yêu nó, nên ông không làm chủ được hành động của mình trước phản ứng quá quắt của con bé. Đến khi phải chia tay con, ông vừa thương vừa sợ bị con phản ánh lần nữa thì ông càng đau lòng thêm, nên ông không dám vồ vập con nữa. Tình thương con được thể hiện tập trung, sâu sắc khi ông trở về khu căn cứ. Càng nhớ con ông càng day dứt, ân hận vì đã đánh con và ông càng nhớ lời con trước lúc chia tay: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.Ông muốn làm chiếc lược cho con dường như để chuộc lỗi lại dường như để tỏ lòng thường yêu con vô hạn. Tác giả đã dành cả một đoạn văn dài miêu tả tỉ mỉ việc ông Sáu làm cây lược cho con. Nỗi nhớ con, tình yêu con bộc lộ trong từng cử chỉ nhỏ: từ việc ông vui như đứa trẻ khi xin đước miếng ngà voi, đến việc ông tỉ mỉ gọt giũa từng chiếc rang lược, chuốt cho thật nhẵn bóng,… Số rang lược càng tăng lên thì nỗi ân hận giảm đi, niềm hạnh phúc dâng lên và lòng mong mỏi được gặp lại con để tận tay trao cho con chiếc lược càng nhiểu. Chiếc lược ngà đã trở thành một kỉ vật thiêng liêng, một biểu tượng đẹp của tình cha con sâu nặng, bất tử.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top