Trang chủ » Bài văn Chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta văn 7 hay nhất

Bài văn Chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta văn 7 hay nhất

Bài làm 1
 
Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình, tinh thần yêu nước ấy đã được giữ vững và phát huy. Là một học sinh nắm trong tay tương lai của đất nước, em sẽ phát huy lòng yêu nước ấy bằng những hành động thiết thực. Lòng yêu nước không phải là một thứ tình cảm nào đó cao xa mà chính là lòng yêu gia đình, yêu hàng xóm và những vật bình thường xung quanh. Yêu thương, kính trọng, lễ phép, giúp đỡ ông bà, cha mẹ những công việc vừa sức, yêu thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường sống, yêu quý, trân trọng, giữ gìn những đồ vật xung quanh… đã là nền tảng của lòng yêu nước sau này. Thấy cánh đồng xanh mướt mà thấy yêu, thấy cha mẹ cực khổ thấy thương, thấy xót… đó chính là lòng yêu nước. Vì vậy, muốn xây dựng được lòng yêu nước thì ta phải rèn luyện những đức tính bình dị như yêu gia đình, yêu làng xóm… Ngoài ra, chúng ta là thế hệ măng non của đất nước, gánh trên vai trọng trách xây dựng, bảo vệ và phát triển nước nhà ”đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ mong muốn.
 
Bởi thế, việc làm thiết yếu nhất mà học sinh chúng ta có thể làm được đó là ra sức học tập và rèn luyện thật tốt để hoàn thiện trí tuệ và nhân cách của bản thân, thực hiện tiếp ước mơ dang dở của cha ông, làm giàu cho đất nước, cho xã hội. Thực hiện những điều trên chính là ta đã cụ thể hóa lòng yêu nước của bản thân.
 
Bài làm 2
 
 
Bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là đoạn trích trong văn kiện Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
 
Qua đoạn trích này, tác giả khẳng định lòng yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước đó được thể hiện rõ ràng nhất, rực rỡ nhất trong những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Đoạn trích cũng phản ánh thái độ trân trọng, tự hào của tác giả trước truyền thống ấy.
Tuy chỉ là đoạn trích nhưng bài văn vẫn có đầy đủ tính chất đặc trưng và cấu trúc của một văn bản nghị luận chứng minh với ba phần rõ rệt như sau:
 
Mở bài: Từ đầu đến lũ cướp nước: Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta. Đó là sức mạnh to lớn trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.
 
Thân bài: Tiếp theo đến lòng nồng nàn yêu nước: Chứng minh những biểu hiện cụ thể của tinh thần yêu nước trong lịch sử chống ngoại xâm và trong cuộc kháng chiến hiện tại.
 
Kết bài: Phần còn lại: Nhiệm vụ của Đảng là động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân ta ngày càng phát huy mạnh mẽ để cuộc kháng chiến chống Pháp đi tới thành công.
 
Bố cục như trên cho thấy sự hợp lí và chặt chẽ trong phương pháp lập luận. Nghệ thuật nổi bật nhất của bài văn là cách lựa chọn và trình bày dẫn chứng.
 
Phần mở bài nêu lên vấn đề được đưa ra nghị luận: Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta… nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Trong cuộc sống chiến đấu, trong xây dựng biểu hiện của lòng yêu nước rất phong phú và đa dạng, ở bài viết này, tác giả nhấn mạnh đến lòng yêu nước ở các cuộc chống ngoại xâm bởi nó được bộc lộ mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất. Đặc điểm lịch sử của đất nước ta là luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm nên rất cần đến lòng yêu nước và tinh thần xả thân vì nước. Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần thi đua yêu nước của toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt biểu dương những gương sáng về lòng yêu nước.
 
Để khẳng định sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, tác giả đã mượn một hình ảnh hoành tráng có tính chất tượng trưng để so sánh: … lòng yêu nước kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lòng yêu nước được nhắc lại nhiều lần (bằng đại từ thay thế nó), kết hợp với các động từ có khả năng gợi cảm lớn như: kết thành, lướt qua, nhấn chìm… làm nổi bật sức mạnh không gì ngăn cản nổi của lòng yêu nước. Âm hưởng hào hùng của câu văn làm rung động trái tim muôn người. Cảm xúc sôi nổi, nhiệt thành, khâm phục và rất đỗi tự hào của Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc lộ rõ trong từng câu, từng chữ.
 
Ở phần thân bài, để chứng minh cho nhận định trên, tác giả đã đưa ra những chứng cứ hùng hồn trong lịch sử giữ nước và trong thực tế cuộc kháng chiến chống Pháp để chứng minh. Đó là những tấm gương yêu nước sáng soi muôn đời của các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng:
 
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,,.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
 
Bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là bốn ngàn năm kế thừa và phát huy liên tục truyền thống yêu nước. Lòng yêu nước như một mạch ngầm thiêng liêng không bao giờ vơi cạn trong dòng máu mỗi người dân đất Việt. Giờ đây, nó được biểu hiện thành những hành động thiết thực:
 
Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ,… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
 
Trong đoạn cuối văn bản, tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh đặc sắc để cụ thể hóa khái niệm trừu tượng, giúp người đọc, người nghe hiểu được một cách dễ dàng:
 
Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.
Bác đã phân tích rõ hai trạng thái của tinh thần yêu nước là tiềm tàng, kín đáo và sôi nổi, mãnh liệt.
 
Bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng và hệ thông dẫn chứng chân thực, bài văn có sức thuyết phục rất lớn. Nhiều thủ pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng như so sánh, liệt kê, lặp cấu trúc câu và hàng loạt động từ có khả năng gợi cảm cao… làm cho câu văn trở nên nhịp nhàng, cân đối, khỏe khoắn. Do vậy mà âm hưởng bài văn hào hùng như âm hưởng của một lời hịch kêu gọi, khích lệ toàn dân đoàn kết một lòng đánh đuổi xâm lăng, bảo vệ chủ quyền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc.
 
Bài văn đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi người dân. Truyền thống anh dũng, bắt khuất là cơ sở vững chắc bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Ngày nay, bài văn trên vẫn còn nóng bỏng tính thời sự, có tác dụng động viên nhân dân Việt Nam vững bước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.
 
Bài làm 3
 
Chiến tranh đã đi qua, đau thương mất mát đã dần vơi dịu nhưng mỗi khi nghe các ca khúc cách mạng thời kì chống Mỹ, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến của dân tộc ta lại hiện lên rõ nét. Có những bài ca làm sống dậy hình ảnh những đoàn quân trùng trùng điệp điệp với khí thế hào hùng của tuổi thanh xuân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”; lại có những bài ca làm người nghe xúc động, bởi tình yêu, niềm tin son sắt mà quân và dân ta đã dành trọn cho Đảng, cho Bác… Nhìn chung, hàng nghìn ca khúc ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trở thành những bản anh hùng ca bất hủ ngợi ca tinh thần đấu tranh bất khuất, truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975), nhân dân Việt Nam anh hùng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, quyết hi sinh xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong sự hi sinh đó phải nói đến sự cống hiến của đội ngũ trí thức mà trước hết là sự đóng góp của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Họ là những người lính vừa cầm bút, vừa cầm súng đi dọc chiều dài của cuộc kháng chiến gian khổ để viết nên những bản hùng ca bất diệt về truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của quân và dân ta.
 
Trong hàng nghìn ca khúc đó trước hết là những ca khúc tiêu biểu, như: “Anh vẫn hành quân”, “Cùng anh tiến quân trên đường dài”, “ Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đường chúng ta đi”, “Nổi lửa lên em” ( Huy Du); “Biết ơn Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Bài ca Hà Nội” Vũ Thanh; “Người chiến sĩ ấy” (Hoàng Vân); “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Chung); “Xuân chiến khu”, “Bài ca may áo” (Xuân Hồng); “Tiến về Sài Gòn”, “Bài ca xuống đường”, “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch”, “Tình Bác sáng đời ta”, “Thanh niên ba sẵn sang”, “ Giải phóng miền Nam” (Lưu Hữu Phước); “Cô gái mở đường”(Xuân Giao); “Bài ca trường Sơn” (Trần Chung); “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh); “Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam” (Nhạc Chu Minh, lời thơ: Hoàng Trung Thông); “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm;” “ Đảng đã cho ta một mùa xuân”, “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên),…
 
Tháng 5 năm 1954, chiến thắng Điện Biên đã đánh dấu một mốc son lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước ta chưa được thống nhất trọn vẹn, đất nước vẫn bị chia cắt hai miền: Nam – Bắc. Những chiến sĩ trong đoàn quân giải phóng Điện Biên nay lại có mặt trong đoàn quân trùng trùng ra trận, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
 
Các ca khúc được sáng tác trong thời kỳ này đều thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường của quân và dân hai miền. Mỗi một ca khúc ra đời như tiếp thêm tinh thần và sức mạnh cho tiền tuyến.
 
Bao năm dài dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, dân tộc ta vô cùng lầm than, cực khổ. Từ khi có Đảng, có Bác Hồ cuộc sống của nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Cả dân tộc được đón những mùa xuân đâm chồi nẩy lộc, nhân dân một lòng đi theo Đảng, đồng tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Đảng cho ta một mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Tuyên, ra đời năm 1957. Đây là một ca khúc tiêu biểu có sức sống mãnh liệt, mãi mãi đi cùng năm tháng, đồng hành với dân tộc Việt Nam. Bài hát viết ở nhịp 3/8, giọng Dur. Với tính chất trong sáng, nhịp độ vừa phải, lời ca giản dị nhưng tràn đầy tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng: “Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương xây đời mới, tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi”.
 
Trong cuộc chiến chống Mỹ, nhân dân hai miền Nam – Bắc đã không tiếc máu xương, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Trong sự hi sinh lớn lao đó có sự đóng góp của bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Họ là những chàng trai, cô gái cày cấy trên đồng ruộng; những anh chị công nhân hăng hái trong xưởng lò, những nam nữ sinh viên miệt mài sách vở… Nhưng khi đất nước lâm nguy đã sẵn sàng lên đường ra trận. Tuổi thanh xuân trải dọc những cánh rừng, con suối, nơi chiến trường đầy khói lửa. Dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, những chàng trai, cô gái vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tất thắng “Mỹ sẽ cút, Ngụy sẽ nhào (…) Lòng khắc sâu vì nợ nước thù nhà, không có gì quý hơn độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này ta là người chiến thắng… Đi lên thanh niên, gian khó không cản được ta. Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi.”
 
Ca khúc “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Nhạc: Thanh Phúc, Lời: Tô Hải và Thanh Phúc) với tính chất hành khúc, khỏe khoắn, kết hợp với lời ca mang tính hiệu triệu, ca khúc đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền của Tổ quốc. Với lời ca thôi thúc“Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi. Lời hịch như tiến quân ca. Tiến lên đi! Cùng tiến lên đi!…” cùng tiết tấu âm nhạc sôi nổi, ca khúc như tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
 
Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu của quân dân ta luôn gắn liền với niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ. Đề tài về Đảng, Bác chiếm phần nhiều trong các ca khúc. Mỗi bước hành quân ra trận đều có Đảng, Bác soi đường dẫn lối. Điều đó được thể hiện qua ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục):
 
“Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận, trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác. Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời (…) Đi, ta đi giải phóng miền Nam khi quê nhà vẫn còn bóng quân xâm lược thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi, lời Bác thúc giục chúng ta. Chiến đấu cho quê nhà Nam Bắc hòa lời ca. (…) Bác kính yêu đang cùng chúng cháu hành quân”.
 
Khi miền Nam đang chìm trong khói lửa, thì miền Bắc với tinh thần: “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Bởi vậy, trên mọi miền quê nơi hậu phương, những người phụ nữ đã thay chồng đảm đang trên đồng ruộng. Họ cũng là những chiến sỹ trên mặt trận sản xuất, vững tay súng, đảm tay cày. Trong ca khúc“Đường cày đảm đang” của nhạc sỹ An Chung, tác giả đã viết:
 
“Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang, ruộng cấy chăng dây cây lúa thẳng hàng đào đắp mương dẫn nước quanh làng. Tiếng hát ba đảm đang… Cùng vì quê hương, lời Bác còn vang giết giặc anh sẵn sàng cứu nước, em đảm đang dù bao gian khổ tiếng ca vẫn rộn ràng…”
 
Trên chiến trường đạn lửa, biết bao chiến sĩ đã hi sinh anh dũng. Họ không tiếc máu xương, sẵn sằng hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc; tinh thần yêu nước càng được thể hiện nổi bật trong từng lời ca, từng giai điệu của ca khúc“Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh)
 
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương,…”
 
Từ 1966 đến năm 1972 là thời kỳ quyết liệt nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Hà Nội, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước bị bắn phá ác liệt. Với quyết tâm bảo vệ thủ đô, bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã chiến đấu ngoan cường. Những ụ pháo được mọc lên trên khắp phố phường của thủ đô Hà Nội nhằm đập tan những đợt không kích của máy bay Mỹ. Ca khúc Bài ca Hà Nội của nhạc sỹ Vũ Thanh đã ghi lại dấu ấn sâu sắc về cuộc chiến đấu của đồng bào thủ đô trong những ngày lịch sử này:
 
“Ơi cô gái ơi! Súng trên vai sao vuông đầu mũ em đi về đâu mà mắt em tươi sáng, em đi về đâu mà chân bước hiên ngang (…) Anh chiến sỹ ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng, ngắm những đường phố mà thấy sao tha thiết. Ôi thủ đô thịt da máu xương ta…”.
 
Ca khúc với giai điệu trữ tình, khắc họa bức tranh đầy màu sắc trong cuộc chiến hào hùng của người chiến sỹ Hà Nội. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng người nữ dân quân tự vệ thủ đô sát cánh bên người chiến sỹ một cách sinh động nhất. Hình ảnh đẹp của cô gái với sao vuông trên mũ trong lời ca, cùng với giai điệu trữ tình, thiết tha đã đem lại những xúc cảm mãnh liệt, những ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe.
 
Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của đất nước đã qua đời. Người ra đi trong khi cuộc đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ còn dang dở, đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền. Ước nguyện của Bác trước lúc ra đi là nước nhà thống nhất. Ca khúc “Người là niềm tin tất thắng” được nhạc sỹ Chu Minh sáng tác trong giờ phút xúc động vô bờ bến, đầy nước mắt; Bác ra đi nhưng hình ảnh của Người sống mãi với non sông đất nước:
 
“Đất nước nghiêng mình, đời đời nhớ ơn tên Người sống mãi với non sông Việt Nam…Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh Đẹp nhất tên Người, rạng rỡ núi sông. Vì độc lập tự do đường lên phía trước rực màu cờ sao. Hồ Chí Minh Bác Hồ Chí Minh kính yêu Người là niềm tin tất thắng sáng ngời.”
 
Nội dung ca khúc nói lên nỗi thương tiếc vô hạn, ghi nhớ công lao to lớn của Bác đối với đất nước. Thể hiện sự quyết tâm đồng lòng “Nén đau thương thành hành động”của cả dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ giành độc lập tự do.
 
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả đất nước ta đang ngập tràn trong niềm vui, thống nhất, ca khúc bất hủ Như có Bác trong ngày đại thắng của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã ra đời. Bài hát được phát trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam, được mọi người yêu thích và hát thuộc ngay sau đó:
 
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…Việt Nam Hồ chí Minh! Việt Nam Hồ Chí Minh!”.
 
Bài hát ngắn gọn, âm nhạc rộn ràng, lời ca súc tích, ghi dấu tên đất nước, tên Người:“Việt Nam – Hồ Chí Minh” đã trở thành điều bất hủ của dân tộc Việt Nam. Ca khúc có giá trị và tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, nó như là máu là thịt của con người, là niềm tự hào của dân tộc.
 
Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt của dân tộc ta. Cả thế giới đã biết đến dân tộc Việt Nam, một dân tộc có truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất. Để có được ngày chiến thắng oanh liệt đó, nhân dân ta đã phải đổ biết bao xương máu. Trong những năm dài đấu tranh gian khổ ấy, quân và dân ta luôn sát cánh bên nhau, chia sẻ khó khăn vất vả, một lòng đi theo Đảng. Các ca khúc ra đời trong thời kỳ này hầu hết đều mang tính chiến đấu, thể hiện lòng quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Dù trong mưa bom bão đạn, dù biết cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng tất cả vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.
 
Các ca khúc sáng tác từ 1954 -1975 là những bản hùng ca cách mạng thể hiện đậm nét truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, niềm tự hào dân tộc. Chúng có sức sống mãnh liệt, khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng cho quân và dân ta vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ca khúc thời chống Mỹ mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng, sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top